SKKN Ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi

Các biện pháp đã tiến hành.

Xuất phát từ một số thuận lợi, khó khăn nêu trên, tôi đã suy nghĩ làm như thế nào để bản thân và đồng nghiệp thuận lợi trong việc ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ, điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên mầm non phải thực sự hiểu về các yếu tố thuận lợi tạo điều kiện cho các giác quan phát triển, mà ở đây chính là dựa vào đặc điểm của xúc giác để phát triển vận động tinh cho trẻ, nâng cao kĩ năng sử dụng các đồ vật nhỏ, sự khéo léo, tỉ mỉ của đôi bàn tay, ngón tay trong khi sử dụng giáo cụ mô phỏng các hoạt động với quần áo.

1)Biện pháp 1: Khảo sát sự hứng thú và kĩ năng sử dụng các đồ vật với kích thước nhỏ, một số trang phục của trẻ.

Để thực nghiệm, tôi đã khảo sát thực trạng kĩ năng sử dụng các đồ vật với kích thước nhỏ, một số trang phục của trẻ và sự hứng thú của trẻ trước những đồ vật đó để tìm ra phương pháp, hình thức nâng cao sự hứng thú cũng như nâng cao kĩ năng sử dụng đồ vật có kích thước nhỏ, làm tăng sự khéo léo, linh hoạt của đôi bàn tay và sự nhanh nhạy của các ngón tay.

Tổng số trẻ trong lớp: 40 Hoạt động Kĩ năng hoạt động Sự hứng thú

 Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt

 Quan sát 65 % 35% 75% 25%

 Cử động bàn tay 70% 30% 75% 25%

 Cử động ngón tay 65% 35% 78% 22%

 Phối hợp tay–mắt 60% 40% 69% 31%

Với kết quả trên đã thể hiện kĩ năng hoạt động và sự hứng thú của trẻ còn chưa cao. Qua đó cho thấy: Việc ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi (Ứng dụng nền tảng là đặc điểm xúc giác của trẻ để phát triển sự khéo léo, nhanh nhạy, linh hoạt của bàn tay, ngón tay cho trẻ) là việc làm vô cùng cần thiết.

2) Biện pháp 2: Thực hiện các bài tập khảo sát khả năng trước khi thực nghiệm:

a, Để thực nghiệm, trước tiên, chúng tôi tiến hành cho trẻ cảm nhận xúc giác qua các hoạt động cầm, nắm, xờ, vuốt ve một số đồ dùng tạo cảm giác khác nhau cho trẻ có môi trường làm quen:

- Một cây gậy được cuốn giấy ráp.

- Một chiếc hộp được bọc vải nhung.

- Một thảm cỏ được tết bằng dây nilon.

- Một cuộn len nhỏ.

- Một miếng cao su mềm.

- Một quả bóng bay nước nhỏ.

- Một thảm gai.

b, Sau khi cho trẻ làm quen với một số môi trường tiếp xúc khác nhau qua bàn tay, tôi tiến hành cho trẻ thực hiện một số hoạt động để xác định rõ kĩ năng vận động linh hoạt của bàn tay thông qua việc cầm, nắm những đồ vật có dạng hình trụ và việc bóp bóng, nặn đất sét. Trẻ thực hiện từng tay một để khảo sát.

 - Cầm gậy tập thể dục: Trẻ nắm vững, bàn tay xòe rộng, các ngón tay ôm sát thân gậy.

 - Cầm chai nước nhỏ (không có nước bên trong) : Trẻ nắm chưa vững, bàn tay xòe rộng, các ngón tay sát vào nhau, đầu ngón tay bấm chặt vào thành chai.

 - Bóp bóng nước (độ to tương đương quả bóng tennis): Trẻ bóp bóng đều tay, bàn tay xòe rộng, các ngón tay chụm, mở liên tục, đều tay.

 - Nặn đất sét (độ to tương đương quả bóng nhỏ, đường kính 5cm): Trẻ bóp chưa đều tay, các ngón tay co lại, lực tì mạnh vào má bàn tay phía ngón cái, miếng đất sét bị biến dạng. Ngoài ra trẻ còn được tham gia hoạt động ngoại khóa vào dịp ngày lễ như: nặn bánh trôi.

Ảnh: Trẻ nặn đất

Ảnh: Trẻ nặn bánh trôi

c) Để nâng cao độ khó và tiến hành khảo sát kĩ năng của vận động ngón tay, tôi tiến hành cho trẻ thực hiện một số hoạt động như: hứng cát, nhặt hạt vòng, tô màu tranh vẽ, xoáy nắp chai. Trẻ thực hiện từng tay để khảo sát.

- Hứng cát: Ban đầu, trẻ xòe tay rộng, bàn tay để ngang, các ngón tay xòe ra, cát rơi xuống chỉ đọng lại trên long bàn tay, còn lại rơi qua kẽ ngón tay. Sau 2-3 lần đổ cát để hứng, trẻ biết chụm các ngón tay lại, cát dọng được trên lòng tay tay nhưng vẫn bị lọt qua kẽ ngón tay. Một số trẻ chụm được chặt các ngón tay nên cát lọt qua rất ít.

- Nhặt hạt vòng: Trong rổ hạt có rất nhiều hạt vòng màu sắc khác nhau, cô yêu cầu trẻ nhặt hạt vòng bằng 2-3 đầu ngón tay. Một số trẻ nhặt được bằng 2 đầu ngón tay một cách khéo léo mà không phải bấm chặt đầu ngón tay lại.

- Tô màu tranh vẽ: Trẻ biết tỳ tay giữ giấy và cầm bút bằng tay phải. Tuy nhiên trẻ cầm bút bằng 3 - 4 đầu ngón tay, ngón cái và ngón trỏ quặt ngang bút, các đầu ngón tay bấm chặt vào bút, đầu ngón tay hằn độ tì mạnh vào bút.nắp.

 

doc 27 trang daohong 10/10/2022 9780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi

SKKN Ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi
	- Việc học tập, lĩnh hội ngôn ngữ - từ lúc mới chào đời đến khi trẻ được khoảng 6 tuổi.
- Tính trật tự - giai đoạn trẻ từ 1 – 3 tuổi.
- Sự gọt giũa tinh tế của các giác quan – từ lúc mới sinh đến 3 tuổi.
- Sự đam mê với các đồ vật nhỏ - khi trẻ được 18 tháng đến 3 tuổi.
- Sự phát triển của các hành vi xã hội – khi trẻ được 2.5 – 4 tuổi.
Sự bình thường hóa: Khái niệm này xuất phát từ yếu tố tập trung vào hoạt động đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ. Điểm nổi bật của nó là khả năng tập trung cũng như “các nguyên tắc không gây gò bó hay ép buộc theo khuôn khổ, trẻ cảm thấy hạnh phúc khi được làm việc, biết cảm thông và tham gia giúp đỡ người khác”.
* Giáo dục và hòa bình.
Khi xây dựng lý thuyết và thực hành, Montessori tin tưởng giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp vào nền hòa bình chung của thế giới. Bà nhận thấy nếu trẻ được tạo điều kiện phát triển theo đúng quy luật phát triển tự nhiên của mình, chúng sẽ biết cách tôn trọng hòa bình và đóng góp nhiều cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Từ những năm 1930 cho đến những năm tháng cuối đời, Montessori đã có rất nhiều các bài giảng liên quan đến chủ đề này. Quan điểm của bà là “Phòng chống chiến tranh, bao lực là nhiệm vụ của chính trị; xây dựng hòa bình là nhiệm vụ của giáo dục”.
Bà đã vinh dự được tổng cộng sáu đề cử cho giải Nobel Hòa bình trong ba năm 1949, 1950 và 1951.
II/ Thực trạng vấn đề.
Thực tiễn giáo dục Montessori ở lứa tuổi sau sinh đến tiền tiểu học
1.1. Chương trình dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (dưới ba tuổi)
Montessori đưa ra nhiều thuật ngữ liên quan đến chương trình học giai đoạn này. “Nindo” tiếng Ý, dịch ra có nghĩa là “tổ chim” dùng để chỉ một số lượng nhỏ trẻ từ 2 tháng đến 14 tháng tuổi, khi trẻ đã biết đi. “Một cộng đồng trẻ nhỏ” ám chỉ số lượng trẻ nhiều hơn từ 1 – 2 tuổi rưỡi và 3 tuổi. Cả hai nhóm này đều được học trong môi trường có học cụ và hoạt động thiết kế phù hợp với độ lớn, kích thước và khả năng của trẻ. Trẻ hoàn toàn có cơ hội phát triển vận động và tính độc lập.
Việc rèn luyện cho trẻ kỹ năng tự đi vệ sinh cũng được đặc biệt chú ý trong giai đoạn này. Một số trường còn có mô hình lớp học “phụ huynh – học sinh”, cho phép cha mẹ vào lớp cùng các con.
1.2. Lớp mẫu giáo và tiền tiểu học (dành cho trẻ từ hai tuổi rưỡi, ba tuổi đến sáu tuổi)
Các lớp này có tên là Ngôi nhà trẻ thơ (Children House). Lớp học có sự pha trộng giữa các lứa tuổi. Số lượng thường từ 20 – 30 học sinh, phụ trách bởi một giáo viên dày dặn kinh nghiệm và một trợ giảng. Bàn ghế trong lớp học được thiết kế riêng cho từng cá nhân hoặc nhóm trẻ hoạt động. Giá để học cụ cũng được thiết kế và sắp xếp đủ tầm với của trẻ. Ban đầu giáo viên sẽ giới thiệu mẫu hầu hết các hoạt động, sau đó trẻ được tự do lựa chọn hoạt động mà chúng yêu thích. Các học cụ và hoạt động trong lớp học giúp trẻ thực hành nhiều kỹ năng cơ bản như rót, xúc bằng thìa, học cụ phát triển giác quan, học cụ liên quan đến toán học, ngôn ngữ, âm nhạc, mỹ thuật
2) So sánh phương pháp giáo dục Montessori và giáo dục truyền thống.
Phương pháp giáo dục
Montessori
Phương pháp giáo dục
truyền thống
- Giúp khai phá tiềm năng phát triển con người.
- Truyền thụ kiến thức trong chương trình học theo chuẩn quốc gia.
- Trẻ học với tốc độ của chính mình và theo đuổi sở thích cá nhân.
- Trẻ học theo chương trình định sẵn trong khung thời gian áp dụng chung cho mọi người.
- Trẻ dạy chính mình bằng cách sử dụng các học cụ được chuẩn bị đặc biệt và có mục đích.
- Trẻ được dạy bởi giáo viên.
- Trẻ tham gia học tập 1 cách chủ động.
- Trẻ tham gia học tập một cách thụ động.
- Sự hiểu biết đến từ kinh nghiệm của chính đứa trẻ thông qua các học cụ và sự phát triển khả năng tự tìm hiểu của trẻ.
- Việc học được sắp xếp theo môn học và giới hạn ở kiến thức được dạy.
- Việc học dựa trên cơ sở lập luận giữa khám phá vật chất và nhận thức có mối liên hệ.
- Trẻ ngồi tại bàn và nhìn lên bảng làm các bài tập.
- Trẻ có thể học tại bất cứ vị trí nào mà trẻ cảm thấy thoải mái, di chuyển xung quanh và nói chuyện tùy ý nhưng không phiền đến các bạn khác.
- Trẻ thường được chỉ định chỗ ngồi và được khuyến khích ngồi im và lắng nghe trong các tiết học theo nhóm.
- Giáo viên cộng tác với trẻ trong giờ học.
- Lớp học do giáo viên chỉ đạo.
- Sự phát triển cá nhân chính là phần thưởng và sự khích lệ, động viên cho mỗi đứa trẻ.
- Sự khích lệ, động viên được tạo ra bởi cơ chế thưởng và phạt.
- Môi trường và phương pháp học khuyến khích tính tự giác.
- Giáo viên giữ vai trò là người chủ yếu thực thi kỉ luật.
- Trẻ học bao lâu tùy thích với bài tập mà nó đã chọn.
- Trẻ chỉ được học trong khoảng thời gian quy định cụ thể.
- Trẻ không bị ngắt quãng trong quá trình học.
- Bài học chia làm các phần và giới hạn thời gian cho mỗi phần.
- Lớp học trộn lẫn độ tuổi.
- Lớp học gồm các trẻ có cùng độ tuổi.
- Học đồng thời với phát triển các kỹ năng xã hội cho trẻ.
- Không chú trọng việc phát triển các kĩ năng xã hội cho trẻ.
- Đồng thời phát triển trí tuệ, các kỹ năng xã hội, cảm xúc và tinh thần.
- Chủ yếu tập trung phát triển trí tuệ cho trẻ.
- Kết hợp việc học các kiến thức học thuật với các kỹ năng xã hội và thực tế cuộc sống.
- Chủ yếu tập trung vào các kiến thức học thuật.
3) Thực tiễn giáo dục Việt Nam và nơi tiến hành thực nghiệm.
Hiện nay, chương trình giáo dục Việt Nam là chương trình giáo dục hiện hành theo phương thức giáo dục truyền thống. Nhờ sự cập nhật những chương trình và phương pháp giáo dục kiểu mới, giáo dục Việt Nam cũng đã bước đầu có sự xuất hiện của phương thức “giáo viên làm bạn với học sinh”; điều đó có nghĩa là cô và trò cùng nhau hoạt động, trao đổi kinh nghiệm cũng như việc học hỏi kiến thức ngay trong quá trình chơi, việc này rút ngắn khoảng cách giữa giáo viên và học sinh, tạo sự gần gũi, học sinh cũng dễ dàng đề đạt và đưa ra những ý kiến cá nhân hơn.
	* Nơi tiến hành thực nghiệm:
- Nơi tôi tiến hành ứng dụng một số thực nghiệm phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi là môi trường giáo dục đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 năm 2015, là trường có diện tích rộng với cơ sở vật chất khang trang hiện đại. Trường có tổng số học sinh hiện tại là 498 học sinh.
- Trường có đội ngũ giáo viên yêu nghề, mến trẻ, 100% đạt trình độ trên chuẩn, luôn có ý thức học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo, có ý thức, trách nhiệm, say sưa với công việc.
Thuận lợi:
- Trường có diện tích rộng nên có nhiều môi trường hoạt động và phát triển thể chất cho trẻ: bãi cỏ rộng với khu phát triển thể chất ngoài trời với nhiều trò chơi phát triển vận động thô như trèo thang, ném bong sân cát, và một số trò chơi rèn luyện sự khéo léo và dẻo dai cho cơ thể trẻ.
- Ban giám hiệu luôn quan tâm, đi sâu vào chuyên môn cũng như đầu tư trang thiết bị giáo dục, sách tranh, đĩa hình là những tài liệu giúp giáo viên dạy trẻ hiệu quả nhất.
- Ban giám hiệu luôn đi sâu quan tâm giúp đỡ bồi dưỡng về chuyên môn, đặc biệt chú trọng nâng cao các điều kiện về tài liệu chuyên môn, cơ sở vật chất phục vụ công tác giáo dục theo hướng hiện đại, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng, các lớp chuyên đề nhằm nâng cao năng lực bản thân.
- Giáo viên trẻ, năng động, sang tạo, vững vàng về chuyên môn, luôn tâm huyết với nghề, có ý thức bồi dưỡng, nâng cao trình độ cũng như tìm tòi, sưu tầm các tài liệu để dạy trẻ hiệu quả cao.
- Trẻ mạnh dạn, tự tin, thông minh, thích tham gia vào các hoạt động.
- Môi trường hoạt động của trẻ phong phú, trẻ có điều kiện tiếp xúc nhiều nên có nhiều kĩ năng hoạt động với từng môi trường khác nhau.
- Ban phụ huynh tạo điều kiện cho giáo viên trong công tác giáo dục và nâng cao phương pháp dạy cũng như tổ chức thực nghiệm phương pháp mới đối với trẻ, phối hợp và tạo điều kiện cho giáo viên trong công tác giáo dục trẻ.
Khó khăn:
- Cơ sở vật chất: vẫn còn thiếu thốn một số giáo cụ trực quan để rèn kỹ năng vận động tinh cho trẻ.
- Việc tìm hiểu tài liệu còn hạn chế.
- Khó khăn về việc sắp xếp thời gian bố trí giờ hoạt động.
III/ Các biện pháp đã tiến hành.
Xuất phát từ một số thuận lợi, khó khăn nêu trên, tôi đã suy nghĩ làm như thế nào để bản thân và đồng nghiệp thuận lợi trong việc ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ, điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên mầm non phải thực sự hiểu về các yếu tố thuận lợi tạo điều kiện cho các giác quan phát triển, mà ở đây chính là dựa vào đặc điểm của xúc giác để phát triển vận động tinh cho trẻ, nâng cao kĩ năng sử dụng các đồ vật nhỏ, sự khéo léo, tỉ mỉ của đôi bàn tay, ngón tay trong khi sử dụng giáo cụ mô phỏng các hoạt động với quần áo.
1)Biện pháp 1: Khảo sát sự hứng thú và kĩ năng sử dụng các đồ vật với kích thước nhỏ, một số trang phục của trẻ.
Để thực nghiệm, tôi đã khảo sát thực trạng kĩ năng sử dụng các đồ vật với kích thước nhỏ, một số trang phục của trẻ và sự hứng thú của trẻ trước những đồ vật đó để tìm ra phương pháp, hình thức nâng cao sự hứng thú cũng như nâng cao kĩ năng sử dụng đồ vật có kích thước nhỏ, làm tăng sự khéo léo, linh hoạt của đôi bàn tay và sự nhanh nhạy của các ngón tay.
Tổng số trẻ trong lớp: 40
Hoạt động
Kĩ năng hoạt động
Sự hứng thú
Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
Quan sát
65 %
35%
75%
25%
Cử động bàn tay
70%
30%
75%
25%
Cử động ngón tay
65%
35%
78%
22%
Phối hợp tay–mắt
60%
40%
69%
31%
Với kết quả trên đã thể hiện kĩ năng hoạt động và sự hứng thú của trẻ còn chưa cao. Qua đó cho thấy: Việc ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi (Ứng dụng nền tảng là đặc điểm xúc giác của trẻ để phát triển sự khéo léo, nhanh nhạy, linh hoạt của bàn tay, ngón tay cho trẻ) là việc làm vô cùng cần thiết.
2) Biện pháp 2: Thực hiện các bài tập khảo sát khả năng trước khi thực nghiệm:
a, Để thực nghiệm, trước tiên, chúng tôi tiến hành cho trẻ cảm nhận xúc giác qua các hoạt động cầm, nắm, xờ, vuốt ve một số đồ dùng tạo cảm giác khác nhau cho trẻ có môi trường làm quen:
- Một cây gậy được cuốn giấy ráp.
- Một chiếc hộp được bọc vải nhung.
- Một thảm cỏ được tết bằng dây nilon.
- Một cuộn len nhỏ.
- Một miếng cao su mềm.
- Một quả bóng bay nước nhỏ.
- Một thảm gai.
b, Sau khi cho trẻ làm quen với một số môi trường tiếp xúc khác nhau qua bàn tay, tôi tiến hành cho trẻ thực hiện một số hoạt động để xác định rõ kĩ năng vận động linh hoạt của bàn tay thông qua việc cầm, nắm những đồ vật có dạng hình trụ và việc bóp bóng, nặn đất sét. Trẻ thực hiện từng tay một để khảo sát.
	- Cầm gậy tập thể dục: Trẻ nắm vững, bàn tay xòe rộng, các ngón tay ôm sát thân gậy.
	- Cầm chai nước nhỏ (không có nước bên trong) : Trẻ nắm chưa vững, bàn tay xòe rộng, các ngón tay sát vào nhau, đầu ngón tay bấm chặt vào thành chai.
	- Bóp bóng nước (độ to tương đương quả bóng tennis): Trẻ bóp bóng đều tay, bàn tay xòe rộng, các ngón tay chụm, mở liên tục, đều tay.
	- Nặn đất sét (độ to tương đương quả bóng nhỏ, đường kính 5cm): Trẻ bóp chưa đều tay, các ngón tay co lại, lực tì mạnh vào má bàn tay phía ngón cái, miếng đất sét bị biến dạng. Ngoài ra trẻ còn được tham gia hoạt động ngoại khóa vào dịp ngày lễ như: nặn bánh trôi.
Ảnh: Trẻ nặn đất
Ảnh: Trẻ nặn bánh trôi
c) Để nâng cao độ khó và tiến hành khảo sát kĩ năng của vận động ngón tay, tôi tiến hành cho trẻ thực hiện một số hoạt động như: hứng cát, nhặt hạt vòng, tô màu tranh vẽ, xoáy nắp chai. Trẻ thực hiện từng tay để khảo sát.
- Hứng cát: Ban đầu, trẻ xòe tay rộng, bàn tay để ngang, các ngón tay xòe ra, cát rơi xuống chỉ đọng lại trên long bàn tay, còn lại rơi qua kẽ ngón tay. Sau 2-3 lần đổ cát để hứng, trẻ biết chụm các ngón tay lại, cát dọng được trên lòng tay tay nhưng vẫn bị lọt qua kẽ ngón tay. Một số trẻ chụm được chặt các ngón tay nên cát lọt qua rất ít.
- Nhặt hạt vòng: Trong rổ hạt có rất nhiều hạt vòng màu sắc khác nhau, cô yêu cầu trẻ nhặt hạt vòng bằng 2-3 đầu ngón tay. Một số trẻ nhặt được bằng 2 đầu ngón tay một cách khéo léo mà không phải bấm chặt đầu ngón tay lại.
- Tô màu tranh vẽ: Trẻ biết tỳ tay giữ giấy và cầm bút bằng tay phải. Tuy nhiên trẻ cầm bút bằng 3 - 4 đầu ngón tay, ngón cái và ngón trỏ quặt ngang bút, các đầu ngón tay bấm chặt vào bút, đầu ngón tay hằn độ tì mạnh vào bút.nắp.
Ảnh: Trẻ tô màu tranh vẽ
- Xoáy nắp chai: Trẻ ôm chai, hoặc tỳ chai vào người; tay còn lại mở nắp, đầu ngón tay bấm mạnh vào nắp, đôi lúc trẻ xoay cả bàn tay và cổ tay.
Ảnh: Trẻ thực hiện xoáy nắp chai
d, Trong quá trình tiến hành các bài tập khảo sát, tôi đồng thời quan sát và đánh giá khả năng phối hợp tay – mắt của trẻ. Các trẻ tiến hành đồng thời hướng mắt về đối tượng mà trẻ đang thực hiện, khi gặp khó khăn và cần sự trợ giúp, trẻ nhìn giáo viên hoặc phân tán sự chú ý đi nơi khác.
3)Biện pháp 3: Thực nghiệm các bài tập ứng dụng phương pháp Montessori vào phát triển vận động tinh cho trẻ 3- 4 tuổi.
Tôi tiến hành áp dụng bài tập ứng dụng của mình trên trẻ, đó là các bảng hoạt động mô phỏng các hành vi sử dụng trang phục thường ngày. Giáo cụ mà tôi sử dụng được làm từ vải và các nguyên vật liệu mở khác dựa trên mô hình giáo cụ sau để tạo độ gần gũi với trẻ và tiết kiệm chi phí cho quá trình thực hiện.
Ảnh: Tủ giáo cụ trực quan.
Bài tập rèn luyện cử động ngón tay.
Bài tập 1: “Luồn dây qua lỗ, buộc dây giày”.
Trẻ thực hiện kĩ năng quen thuộc luồn dây qua lỗ, buộc dây giày, các mức độ tùy thuộc giáo viên yêu cầu vào khả năng từng trẻ, luồn dây ngang, luồn dây đan chéo.
Yêu cầu: Trẻ phải sử dụng 1 tay giữ giáo cụ, 1 tay xâu dây luồn qua lỗ.
 Ảnh: Giáo cụ trực quan
 Ảnh: Bé xâu dây giày
Trẻ thực hiện: Trẻ hứng thú với giáo cụ thực tế, trẻ tập trung chú ý vào giáo cụ cũng như sự chỉ dẫn của cô. Ban đầu còn long ngóng, các đầu ngón tay cầm dây chưa đều, bấm chặt quá làm đầu dây bị nghiêng, khó luồn vào lỗ, sau đó khi đã quen, trẻ biết cầm đầu dây một cách nhẹ nhàng bằng các đầu ngón tay, nhanh nhẹn đưa tay ra sau rút dây. Trẻ làm nhanh dần và kĩ năng ổn định dần sau 2 lần làm quen với giáo cụ.
Bài tập rèn luyện cử động bàn tay.
Bài tập 2: “Kéo mở khóa”
Trẻ thực hiện cả hai tay đối với bài tập kéo khóa này. Giáo cụ có thể để hướng phía trước hoặc có thể dựa vào người trẻ để mô phỏng hành vi tự kéo khóa và kéo khóa cho đối tượng khác.
Yêu cầu: Trẻ dựa giáo cụ vào người, hướng mặt trước của giáo cụ ra ngoài, sử dụng cả 2 bàn tay, một tay giữ vải, một tay kéo khóa. Sau đó, trẻ dùng 2 tay đưa nấc khóa vào và lại kéo khóa lên, một tay giữ vải.
Trẻ làm tương tự với giáo cụ để phía trước mặt.
 Ảnh: Giáo cụ trực quan
 Ảnh: Bé kéo khóa áo
Trẻ thực hiện: Kĩ năng kéo, mở khóa của trẻ tương đối tốt, trẻ biết giữ giáo cụ và kéo khóa bằng tay thuận, 2-3 đầu ngón tay cầm vào đầu khóa, bấm chặt đầu ngón tay, kéo từ từ xuống hoặc lên. Tuy nhiên, cần cho trẻ làm quen hơn nữa với kĩ năng sử dụng 2 tay đưa khóa vào nấc, đây là 1 chi tiết nhỏ, trẻ còn chưa thao tác được với những nấc khóa bé. Giáo cụ thu hút được sự chú ý và khơi gợi hứng thú của trẻ.
Bài tập phối hợp rèn luyện cử động ngón tay và bàn tay.
Bài tập 3: “Tháo mở cúc”.
Trẻ được thực hiện bài tập rèn luyện sự nhanh nhạy của ngón tay và sự mềm dẻo của cổ tay, bàn tay thông qua các hành động: đóng mở cúc, buộc dây giày, luồn dây qua lỗ, sử dụng cúc bấm, kéo khóa
Ở bài tập tháo mở cúc áo, cô để trẻ tự làm quen với giáo cụ và đưa ra yêu cầu cho trẻ hãy tháo cúc ra, sau đó, lại yêu cầu trẻ đóng cúc vào, cho trẻ làm quen với cúc to và cúc nhỏ khác nhau.
 Ảnh: Giáo cụ trực quan
 Ảnh: Trẻ đóng mở cúc áo
Trẻ thực hiện: Trẻ biết sử dụng các đầu ngón tay bấm chặt vào cúc áo và luồn cúc áo theo chiều ngược lại để mở ra và đóng vào. Trẻ được làm quen với giáo cụ và kĩ năng tay tốt dần lên, xuất hiện sự kết hợp mềm dẻo của cổ tay và bàn tay. Trẻ biết phối hợp tay – mắt tốt. Trẻ hứng thú với giáo cụ, chăm chú thực hiện và nhanh nhẹn xử lý tình huống.
Bài tập rèn luyện sự phối hợp tay – mắt.
Bài tập 4: “Sử dụng khuy bấm, nút cài”.
Trẻ thực hiện kĩ năng bấm khuy đối với các đầu ngón tay, giáo cụ được để xuống mặt sàn hoặc dựa vào người trẻ, khuy bấm được thiết kế dưới mặt vải nhẵn không có đánh dấu, trẻ sử dụng xúc giác xờ và cảm nhận vị trí khuy bấm và bấm gắn chúng lại với nhau. Trẻ làm tương tự với nút cài.
 Ảnh: Giáo cụ trực quan
 Ảnh: Trẻ sử dụng nút cài
Trẻ thực hiện: Trẻ biết phối hợp tay mắt, sau khi xờ và xác định được vị trí, trẻ bấm khuy lại và tiếp tục dùng đầu ngón tay xờ vị trí khuy bấm tiếp theo. Đối với nút cài, trẻ sử dụng cả hai tay, các đầu ngón tay cầm vào 2 bên nút, đưa nhẹ nút vào nhau và làm tương tự với các nút khác, đầu ngón tay của trẻ không tỳ quá chặt.Trẻ thích làm lại nhiều lần, có sự hứng thú với giáo cụ trực quan.
Bài tập 5: “Sử dụng khóa cài”.
Trẻ thực hiện hoạt động phối hợp luồn dây qua lỗ, cài khóa. Đây là một bài tập kết hợp với độ khó cao, sử dụng bài tập này với trẻ 36 tháng.
Trẻ phải phối hợp cả tay – mắt và sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa ngón tay và bàn tay. Các đầu ngón tay cầm vào đầu dây, luồn qua khe móc rồi dùng tay rút dây ra. Sau đó, khi kéo đến khu vực dây có lỗ, trẻ dùng đầu ngón tay ủn khóa cài vào dây.
Ảnh: Trẻ thực hiện bài tập
4). Biện pháp 4: Sưu tầm một số bài tập cơ bản khác giúp phát triển vận động tinh ở trẻ 3- 4 tuổi.
4.1. Bong bóng xà phòng:
Vận động tinh, thao tác, 3 - 4 tuổi
Mục đích: Cải thiện sự làm chủ vận động tinh và khả năng nắm bắt
Mục tiêu: Mở nắp hũ bong bóng xà phòng và sử dụng que chính xác.
Dụng cụ: Hũ bong bóng xà phòng (với que và nắp).
Tiến trình:
- Cô chắc chắn nắp của hũ bong bóng xà phòng không siết chặt và cô để hũ đó trên bàn trước mặt trẻ.
- Cô nắm bắt chú ý của trẻ và chỉ cho trẻ cách vặn và mở nắp. Sau đó cô lấy cái que ra và làm vài bong bóng bằng cách lay động que.
- Cô bỏ que trong hũ và vặn nắp nhẹ nhẹ.
- Cô cầm bàn tay trẻ và giúp trẻ mở nắp, sau đó hướng dẩn trẻ tìm que trong hũ và lay động que để tạo ra những bong bóng. Sau vài giây, bỏ que vào hũ và vặn nắp.
- Cô để hũ trước mặt trẻ và ra hiệu cho trẻ mở nắp.
- Nhại lại cử động nếu cần, cô đặt bàn tay trẻ trên hũ cho đúng.
- Cô tiếp tục nhại lại những cử động khi bạn chắc chắn trẻ nhìn vào bàn tay bạn.
- Lặp lại bài tập cho tới khi trẻ mở nắp không trợ giúp (lúc đầu bạn mong đợi trẻ sẽ làm đổ, trước khi trẻ học cách làm chủ bàn tay, cái hũ và cái que).
4.2. Mở nắp lọ: 
Vận động tinh, phối hợp hai bàn tay, 3 - 4 tuổi
Mục đích: Cải thiện sự làm chủ vận động tinh. Sự phối hợp hai bàn tay, sự rắn rỏi bàn tay và sự xoay cổ tay.
Mục tiêu: Mở nắp lọ nhỏ không trợ giúp.
Dụng cụ: 3 lọ nhỏ có nắp để mở, bánh kẹo.
Tiến trình:
- Để 3 lọ trên bàn trước mặt trẻ. Cô đu đưa bánh kẹo mà trẻ thích trong tầm nhìn của trẻ.
- Khi cô nắm bắt được sự chú ý của trẻ, bạn mở nắp một trong 3 lọ và để bánh kẹo vào trong. cô đóng nhẹ cái nắp.
- Cho trẻ một cái lọ và ra hiệu cho trẻ mở nắp lọ bằng cách bắt chước hành động với bàn tay cô. Sau đó cô để bàn tay trẻ trên lọ một cách thích hợp và giúp trẻ mở nắp để lấy bánh kẹo.
- Lặp lại bài tập này với những lọ khác. Giảm sự trợ giúp của bạn cho tới khi trẻ mở một mình 3 lọ. Cô đừng quên kiểm tra mỗi lần nắp không được đóng chặt quá.
	4.3. Bài tập ngón tay
Vận động tinh, thao tác, 3 - 4 tuổi
Mục đích: Cải thiện sự làm chủ ngón tay.
Mục tiêu: Thực hành cử động đơn giản các ngón tay không trợ giúp.
Dụng cụ: Không có.
Tiến trình:
- Cô chỉ cho trẻ những cử động đơn giản về ngón tay và cho trẻ bắt chước những cử động sau (ví dụ cô dùng ngón cái trái sờ liên tục vào mỗi ngón của bàn tay phải của cô). 
- Cô ra hiệu cho trẻ phải bắt chước cô. Nếu trẻ muốn bắt chước cô, cô dùng bàn tay cô hướng dẫn bàn tay trẻ theo ý muốn. Cô khen thưởng tức thì.
- Các động tác khác về ngón tay có thể được là:
a) Cử động ngón cái bằng cách nắm tay lại.
b) Cử động các ngón tay bằng cách để lòng bàn tay hướng lên cao.
c) Cử động rời từng ngón bằng cách để lòng bàn tay hướng phía dưới.
- Lặp lại bài tập bằng cách sử dụng những động tác khác đơn giản về ngón tay để cho trẻ học cử động ngón tay chung với nhau và rời từng ngón.
4.4. Kéo dây:
Vận động tinh, thao tác, 3 - 4 tuổi
Mục đích: Cải thiện sự cầm nắm và làm chủ vận động tinh.
Mục tiêu: Kéo dây của một đồ chơi hoặc thú nhồi bông để

File đính kèm:

  • docskkn_ung_dung_phuong_phap_montessori_vao_phat_trien_van_dong.doc