SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi
Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo bé.
Trong công tác giáo dục mầm non, từ việc tổ chức đời sống cho trẻ đến việc giáo dục trẻ trong các hình thức hoạt động ở mọi lúc mọi nơi đều phải dựa vào những đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ. Tâm lý học giúp các nhà giáo dục đặc biệt là giáo viên mầm non nắm vững được những đặc điểm phát triển của trẻ, từ đó xây dựng một nhãn quan khoa học để thực hiện tốt công tác giáo dục mầm non. Để nâng cao chất lượng hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi thì việc nắm vững đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ là vô cùng quan trọng.
Tư duy của trẻ mẫu giáo bé có một bước ngoặt cơ bản đó là tư duy của trẻ đạt tới danh giới của tư duy trực quan hình tượng nhưng các hình tượng và biểu tượng trong đầu trẻ vẫn còn gắn liền với hoạt động. Tư duy của trẻ mẫu giáo bé còn gắn liền với cảm xúc, ý muốn chủ quan và bị tình cảm tri phối rất mạnh mẽ.
Ở lứa tuổi mẫu giáo bé thì trí nhớ không có chủ định chiếm ưu thế nên trẻ dễ nhớ, dễ quên, ghi nhớ một cách máy móc. Một đặc trưng trong trí nhớ của trẻ mẫu giáo bé là trí nhớ của trẻ gắn liền với cảm xúc và điều gì gây xúc động mạnh trẻ sẽ nhớ tốt hơn.
“Thỏ thẻ như trẻ lên ba" hay "Trẻ lên ba, cả nhà học nói” là những câu tục ngữ muốn nhấn mạnh đến đặc trưng ngôn ngữ ở năm thứ 3 của một đứa trẻ, bởi vì thời điểm này là thời điểm khả năng ngôn ngữ của trẻ phát triển vượt bậc so với giai đoạn trước. Vốn từ của bé lúc này có thể dao động từ 500-900 từ, và trẻ đã biết dùng các cụm từ và câu dài từ 7-8 từ, có đủ chủ vị ngữ và động từ. Tuy nhiên, trẻ phát âm chưa chính xác đặc biệt là các nguyên âm đôi và phụ âm.
Trẻ mẫu giáo bé không chỉ chú ý được nhiều vật thể trong cùng một thời điểm tri giác mà ngay trên cùng một vật trẻ cũng có thể chú ý được nhiều thuộc tính, tính chất hơn. Sự bền vững của chú ý cũng được tăng lên đáng kể, trẻ chú ý được 25-27 phút nếu đối tượng hấp dẫn.
Trẻ ở lứa tuổi này đã làm chủ được quá trình tri giác của mình, dưới sự hướng dẫn bằng lời của người lớn trẻ đã biết quan sát. Trong quá trình tri giác của trẻ yếu tố khách quan đã tăng lên nhờ đó mà trẻ có thể tiến hành tri giác lâu hơn, tính đúng đắn cũng cao hơn so với tuổi nhà trẻ. Song tri giác của trẻ 3 tuổi vẫn mang tính tự kỷ.
3. Đặc điểm phát triển biểu tượng hình dạng của trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi.
Ngay từ khi học ở lớp nhà trẻ trong các tiết học hoạt động với đồ vật trẻ đã được làm quen, tiếp xúc với các hình hình học nhưng mục đích chính chủ yếu để trẻ phân biệt màu sắc, có thể giới thiệu tên gọi của các hình nhưng không yêu cầu trẻ phải nhớ tên mà để trẻ tự do hoạt động với các hình, tự khám phá theo ý thích riêng của trẻ. Trẻ đã thực hiện được nhiệm vụ tìm kiếm vật theo hình dạng.
Bước sang tuổi mẫu giáo bé (3 đến 4 tuổi) khả năng tri giác của trẻ đã phát triển hơn. Vì vậy, các biểu tượng hình dạng mà trẻ có được ngày càng đa dạng, phong phú và chính xác hơn. Tuy vốn ngôn ngữ và kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nhưng trẻ đã có khả năng gọi đúng tên, phân biệt được hình dạng khác nhau của vật thể quen thuộc.
Ví dụ: Khăn lau của trẻ có hình vuông, bàn ăn có hình chữ nhật
Khả năng chú ý có chủ định của trẻ mẫu giáo bé còn thấp, trẻ vẫn thường bị lôi cuốn bởi các thao tác với đồ vật hơn là việc nhận biết hình dạng của vật vì trẻ không tri giác các hình hình học như những hình chuẩn, mà thường coi chúng như những đồ chơi thông thường và gọi theo tên của đồ chơi đó nhưng nếu có sự hướng dẫn, chỉ bảo của người lớn trẻ sẽ không đồng nhất tên gọi các hình hình học với tên đồ vật nữa mà trẻ có ý thức so sánh hình dạng giữa các hình hình học và các vật quen biết. Ví dụ: Hình ô van như là quả trứng, hình tròn như là cái vòng. Và dần dần trẻ bắt đầu lĩnh hội các hình hình học như những hình mẫu để sử dụng khi xác định hình dạng của các vật, Ví dụ: cái vòng, cái đĩa có dạng hình tròn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi
hình hình học cần hướng dẫn trẻ sử dụng chúng như các hình chuẩn để so sánh và xác định hình dạng của các vật xung quanh trẻ. II. Đối tượng nghiên cứu của đề tài. Một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi. III. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Do điều kiện thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biện pháp hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi. IV. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Xây dựng một số biện pháp dạy trẻ hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo bé, nhằm nâng cao mức độ hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo bé. V. Phương pháp nghiên cứu của đề tài. 1. Phương pháp nghiên cứu lí luận. + Đọc sách báo, tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. + Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. + Định hướng cho đề tài nghiên cứu. 2. Phương pháp quan sát sư phạm. + Dự giờ, quan sát hoạt động của giáo viên, của trẻ trong các giờ hoạt động hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi. 3. Phương pháp trao đổi với giáo viên và trẻ. 4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. + Tổng hợp kinh nghiệm của một số giáo viên có liên quan. 5. Phương pháp thống kê toán học. + Để xử lí các kết quả nghiên cứu. VI. Thực trạng của việc hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi. 1. Về nhận thức của giáo viên. Hiện tại trường tôi có 14 nhóm lớp trong đó có 6 nhóm lớp 3 tuổi với 14 giáo viên giảng dạy. Trong đó có 8 giáo viên có trình độ Đại học, 6 giáo viên đang tham dự lớp đại học tại chức. Các giáo viên đều được hưởng mọi chế độ và quyền lợi theo đúng Bộ luật lao động nên các giáo viên đều yên tâm công tác. Qua việc trao đổi thảo luận và dự các hoạt động học tập có chủ đích của 14 giáo viên trực tiếp giảng dạy tại 3 lớp mẫu giáo 3-4 tuổi. Tôi thu được kết quả cụ thể như sau: * Kết quả trao đổi thảo luận: Tiêu chí Kết quả Tỷ lệ % Giáo viên nắm được tốt các kiến thức về hình dạng 5/14 36% Giáo viên nắm được các kiến thức về hình dạng 7/14 50% Giáo viên chưa nắm vững các kiến thức về hình dạng 2/14 14% * Kết quả dự giờ, tổng số giờ dự được: 10 giờ Xếp loại Kết quả Tỷ lệ % Xếp loại tốt 2/10 20% Xếp loại khá 4/10 40% Xếp loại đạt yêu cầu 3/10 30% Chưa đạt yêu cầu 1/10 10% * Nhận xét chung: + Giáo viên đã ý thức được vai trò và tầm quan trọng của việc hình thành các biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo bé đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Nhưng hầu hết các nhận thức của giáo viên còn đơn giản mới chỉ dừng lại ở hình thức mà chưa đi sâu tìm hiểu. + Điều cơ bản là thiếu đồ dùng trực quan khi dạy trẻ mà giáo viên lại chưa biết linh hoạt tận dụng hết những điều kiện vật chất xung quanh để làm đồ dùng cho cô và trẻ. + Giáo viên chưa quan tâm toàn diện cả 2 nội dung cần cung cấp và hình thành cho trẻ một cách đồng đều đó là những kiến thức về hình dạng và những kỹ năng khảo sát hình dạng trong quá trình dạy trẻ nhận biết dấu hiệu đặc trưng của các hình. + Bên cạnh đó giáo viên ít đầu tư thời gian trí tuệ cho nội dung hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mà chỉ quan tâm đến nội dung về số lượng nên hình thức tổ chức các giờ hoạt động nhằm hình thành các biểu tượng về hình dạng cho trẻ thường diễn ra khô cứng, chưa có sự linh hoạt sáng tạo, những đồ dùng học tập và bài tập đưa vào trong tiết học chưa có sự mới lạ và sinh động, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiết học, chưa giúp trẻ khắc sâu, nhớ lâu được các biểu tượng đã làm quen. + Nội dung về hình dạng ít được giáo viên lồng ghép vào trong các hoạt động khác và khi thiết kế môi trường hoạt động cho trẻ chưa được chú ý. 2. Về nhận thức của trẻ. Năm học này tôi được phân công chăm sóc, giáo dục trẻ lớp mẫu giáo 3-4 tuổi, lớp tôi phụ trách có 3 giáo viên và 35 cháu; các cháu trong lớp có độ tuổi đồng đều và sức khỏe tốt, trẻ đi học đều tỷ lệ bé ngoan- bé chuyên cần đạt 95-98%. Tuy nhiên, trẻ trong lớp còn nhút nhát, thiếu tự tin khi tham gia vào các hoạt động. Qua khảo sát nhận thức của trẻ trong các hoạt động hình thành biểu tượng về hình dạng trên 35 cháu lớp mẫu giáo 3-4 tuổi, tôi thu được kết quả cụ thể sau: Các tiêu chí Xếp loại Giỏi Khá Trung bình Yếu Nhận biết được các hình vuông, tròn, chữ nhật, tam giác. 7/35= 20% 8/35= 23% 15/35= 42% 5/35=15% Biết khảo sát và nắm được 1số đặc điểm đường bao quanh của hình. 6/35= 17% 7/35= 20% 16/35= 46% 6/35=17% Ứng dụng kiến thức về các hình đã học để xác định hình dạng các vật xung quanh trẻ. 6/35= 17% 9/35= 26% 15/35= 43% 5/35 =14% * Nhận xét chung: Mức độ nắm các kiến thức về hình dạng của trẻ còn kém. Kỹ năng khảo sát và nắm được một số đặc điểm đường bao quanh hình của trẻ còn nhiều hạn chế. Số trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập nhằm hình thành biểu tượng về hình dạng chỉ đạt 60%. * Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành các biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi. Qua quá trình điều tra và khảo sát việc hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi, tại trường mầm non Hoa Sữa, tôi đã tìm ra được một số điểm thuận lợi và khó khăn như sau: * Về thuận lợi. Luôn được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường. Các nhóm lớp được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị dạy học hiện đại. Giáo viên được tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn do nhà trường và do các cấp tổ chức. Đặc biệt là có đội ngũ cán bộ, giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ. Được sự tín nhiệm và ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh. Trẻ trong lớp có độ tuổi đồng đều, tỷ lệ bé ngoan bé chuyên cần đạt: 95-98% * Về khó khăn: Trình độ chuyên môn của giáo viên chưa cao, một số giáo viên chưa nắm vững và sử dụng hợp lý, thành thạo các biện pháp hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo bé để đem lại hiệu quả. Một số giáo viên chưa nhận thức được vai trò của việc hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo bé nên ít đầu tư thời gian, trí tuệ cho nội dung hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ. Nội dung về hình dạng chưa được giáo viên chú ý lồng ghép vào trong các hoạt động khác và khi thiết kế môi trường hoạt động cho trẻ chưa được giáo viên quan tâm. Đồ dùng trực quan phục vụ cho các hoạt động nhằm hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ mẫu giáo bé còn sơ sài chưa có sự mới lạ, sinh động để thu hút trẻ. Giáo viên chưa thường xuyên tổ chức các hoạt động để trẻ được tham gia trải nghiệm ôn luyện củng cố kiến thức. VII. Một số biện pháp mới sáng tạo. - Tổ chức môi trường hoạt động trong lớp học. - Sử dụng trò chơi học tập. - Lồng ghép tích hợp nội dung về hình dạng vào các môn học khác và ngược lại. - Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng. - Tạo ra tình huống có vấn đề và giúp trẻ giải quyết. - Tích cực làm đồ dùng- đồ chơi. B. ỨNG DỤNG VÀO THỰC TIỄN VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. I. Ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy. 1. Biện pháp 1: Tổ chức môi trường hoạt động trong lớp học. Tổ chức môi trường hoạt động là bố trí, sắp xếp các sự vật theo 1 hệ thống sao cho đối tượng hoạt động phải trở thành tiềm năng sinh ra động cơ hoạt động cho trẻ mầm non. Môi trường hoạt động là một yếu tố trực quan trực tiếp, tác động hàng ngày đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Chính vì vậy việc xây dựng cảnh quan môi trường xung quanh cần được quan tâm. Trang trí, sắp xếp lớp học, phòng học hài hoà hợp lý với nội dung bài dạy sẽ tạo được sự chú ý, sẽ hấp dẫn lôi cuốn trẻ vào giờ học theo giai đoạn, theo chủ điểm, theo nội dung từng bài dạy. Tổ chức môi trường lớp học phù hợp với nội dung bài học sẽ giúp trẻ ôn luyện, củng cố những kiến thức, kỹ năng đã học. Hiểu rõ được tầm quan trọng, mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức môi trường hoạt động trong việc hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ, tôi đã xây dựng môi trường hoạt động trong lớp học cho trẻ như sau: Tuỳ vào nội dung của từng bài dạy để bố trí trực quan xung quanh lớp cho phù hợp như: Giá đồ chơi được sắp xếp theo từng góc, các đồ chơi trong góc luôn gắn liền với chủ đề; Các mảng tường trang trí tranh ảnh theo chủ đề, vừa với tầm mắt của trẻ để thu hút và tạo điều kiện cho trẻ luyện tập cũng như liên hệ thực tế. Ví dụ: Tiết học nhận biết hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác, hình tròn, trong chủ điểm phương tiện giao thông. + Tôi bày những đồ dùng, đồ chơi có dạng các hình đang học ở trong các góc và xung quanh lớp học: Vòng làm vô lăng lái ô tô; bánh xe; thuyền được ghép bởi các hình chữ nhật, tam giác; máy bay; các loại biển báo có hình dạng hình tam giác, hình tròn... + Treo tranh ảnh về những loại phương tiện giao thông được ghép bởi các hình vuông, chữ nhật, tròn tam giác như: tàu, thuyền được ghép bởi hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn.... + Trong các góc chơi tôi chuẩn bị các nguyên vật liệu có dạng các hình vừa học để trẻ tự tìm hiểu, khám phá như: Các loại hộp giấy, vòng, bóng ... Tôi đã sưu tầm các nguyên vật liệu sẵn có để làm và bổ xung thêm đồ dùng, đồ chơi vào trong môi trường hoạt động học tập của trẻ, đồ dùng đồ chơi tự làm đảm bảo an toàn, thẩm mỹ và phải mang ý nghĩa giáo dục. Ví dụ: Khi học về các hình vuông, chữ nhật, tròn. Chủ đề: Gia đình Tôi tổ chức cùng phụ huynh, trẻ sưu tầm các loại hộp có dạng các hình đã học để làm đồ chơi như hộp đựng dầu gội, hộp thuốc, hộp bánh kẹo... Sau đó cô và trẻ cùng trang trí những chi tiết lên các hộp để tạo thành hình người, hình các con vật, hình lật đật, các phương tiện giao thông... Các hình đó tôi sẽ trưng bày ở lớp như vậy trẻ sẽ rất hứng thú và ghi nhớ được các hình rất nhanh. Tổ chức môi trường hoạt động trong lớp học được sử dụng ở mọi lúc, mọi nơi với tất cả các nội dung hình thành biểu tượng toán cho trẻ. Khi tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ tôi luôn chú ý tới các nguyên tắc sau: Nguyên tắc toàn diện, an toàn, tương tác và hiệu quả. Tôi đã lựa chọn đồ dùng đồ chơi hợp lý, sắp xếp và trang trí phù hợp, thường xuyên bổ xung thêm đồ dùng, đồ chơi mới, tạo ra môi trường thông minh làm nổi lên tính hiện đại trong môi trường hoạt động. Ví dụ: Khi học đến nội dung về hình vuông, hình chữ nhật thì các đồ dùng, đồ chơi xung quanh lớp có dạng hình vuông, hình chữ nhật là nhiều hơn như: Trong góc phân vai bày những lật đật, búp bê cắt từ các hình bằng giấy 2. Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi học tập. Trò chơi học tập thuộc nhóm trò chơi có luật, thường là do người lớn nghĩ ra cho trẻ chơi và dùng nó vào mục đích giáo dục và dạy học, hướng tới việc phát triển hoạt động trí tuệ cho trẻ. Sử dụng trò chơi học tập trong tiết học, giúp trẻ củng cố những kiến thức, kỹ năng trẻ đã học và ứng dụng chúng vào trong tình huống cụ thể. Trò chơi học tập làm cho giờ hoạt động học tập của trẻ diễn ra nhẹ nhàng, sinh động. Phát triển tính nhạy cảm của các giác quan, đồng thời nó làm tăng tính tích cực của quá trình tư duy. Trong quá trình dạy và học cho trẻ, trò chơi học tập giữ những vị trí khác nhau. Trò chơi học tập sử dụng như một biện pháp dạy học cũng có khi nó thực hiện chức năng như một bài luyện tập hoặc như một hoạt động vui chơi độc lập của trẻ hoặc như một hình thức dạy học khi toàn bộ tiết học được lồng vào trò chơi. Với vị trí là một biện pháp dạy trẻ thì trò chơi là một bộ phận cơ bản của tiết học. Việc hướng dẫn trò chơi học tập đòi hỏi phải có nghệ thuật sư phạm cao. Giáo viên phải biết lựa chọn trò chơi phù hợp với nội dung của bài dạy để dạy trẻ. Khi chọn trò chơi phải kết hợp được giữa chơi và học tạo ra hoạt động tích cực của trẻ dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Để trò chơi học tập thêm phần sinh động và thu hút được sự chú ý của trẻ hơn tôi đã tích cực sưu tầm, sáng tác thêm những trò chơi mới hấp dẫn đối với trẻ như lồng ghép thêm vào trò chơi các bài đồng dao phù hợp hoặc cũng có thể cải biên từ những trò chơi dân gian gần gũi với trẻ thành những trò chơi phù hợp với mục đích của bài dạy. Ví dụ1: Tiết: Ôn luyện hình vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật. Chủ đề: Một số nghề phổ biến. Tôi đã cải biên trò chơi dân gian: Rồng rắn lên mây, thành trò chơi có mục đích học tập: Rồng rắn tìm nghề. + Cách chơi: Cô có bức tranh về các nghề (Làm ruộng, bác sỹ, thợ xây, cô giáo), cô sẽ cất đằng sau những ngôi nhà có gắn các hình đã học. Cô đóng làm thầy thuốc, trẻ làm rồng rắn vừa đi vừa đọc bài đồng dao: Rồng rắn lên mây. Rồng ra rồng rắn ăn sắn bỏ sơ, ăn mơ bỏ hột Hỏi thăm nghề thầy thuốc (xây dựng, cô giáo) Có ở nơi đâu. Thầy thuốc trả lời nghề đó có ở ngôi nhà nào thì trẻ phải nhanh chân chạy về ngôi nhà đó và tìm bức tranh. Ví dụ: Thầy thuốc trả lời “Có ở ngôi nhà hình vuông” thì trẻ phải nhanh chân chạy về ngôi nhà có gắn hình vuông và lấy bức tranh về nghề thầy thuốc. + Luật chơi: Ai mà không tìm đúng nhà thì bị ra ngoài một lượt chơi. Từ những nguyên vật liệu hết sức đơn giản tôi có thể tổ chức thành các trò chơi giúp cho trẻ được trải nghiệm khắc sâu kiến thức về các hình đã học. Ví dụ 2: Trò chơi: Tạo hình bằng dây. Mục đích: Củng cố kiến thức về các hình vuông, tròn, chữ nhật, tam giác. Chuẩn bị: Mỗi trẻ 1 bảng gỗ có gắn móc (khoảng cách giữa các móc bằng nhau), 2-3 sợi dây chun buộc tóc. Cách chơi: Trẻ dùng dây chun móc vào các móc để tạo thành các hình theo yêu cầu của cô. Ví dụ: Cô nói hình vuông, trẻ sẽ móc dây chun vào 4 móc tạo thành hình vuông và nói “4 cạnh bằng nhau”. Luật chơi: Ai không tạo được hình theo yêu cầu sẽ phải nhảy lò cò đến ngôi nhà có cửa hình vuông. Ví dụ 3: Trò chơi: Đôi bàn tay diệu kỳ (tạo hình từ đôi tay). Cách chơi: Cô nói tên hình gì thì trẻ phải sử dụng những ngón tay trên 2 bàn tay của mình để tạo thành hình theo yêu cầu: Cô nói: Hình tròn - Trẻ lấy đầu ngón tay cái và đầu ngón tay trỏ của một bàn tay chạm vào nhau để tạo hình tròn. Hoặc cô nói “hình vuông” - đầu ngón tay giữa của tay phải chạm vào đầu ngón tay trỏ của tay trái và đầu ngón tay giữa của tay trái chạm vào đầu ngón tay trỏ của tay phải để ngang trước mặt; “hình tam giác” – Ngón tay giữa của tay trái và tay phải trồng lên nhau và đầu 2 ngón tay trỏ chạm vào nhau. Ví dụ 4: Trò chơi: Gấp hình. Mục đích: ôn luyện các hình vuông, tam giác, chữ nhật. Chuẩn bị: Mỗi trẻ một tờ giấy hình vuông. Cách chơi: Trẻ gấp tờ giấy hình vuông thành các hình đã học theo yêu cầu của cô như: Hình chữ nhật - gấp đôi tờ giấy hình vuông, hình tam giác - gấp chéo tờ giấy hình vuông. Nếu là tiết học cung cấp kiến thức mới, tôi thường sử dụng trò chơi vào cuối giờ học. Nếu là tiết học ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng đã học thì tôi sử dụng nhiều trò chơi xen kẽ động và tĩnh nhằm củng cố khắc sâu kiến thức, kỹ năng cho trẻ. Trò chơi học tập được sử dụng trong mọi loại tiết học toán và ở mọi lúc, mọi nơi. 3. Biện pháp 3: Lồng ghép tích hợp nội dung về hình dạng vào các môn học và Ngược lại. Lồng ghép tích hợp là sự đan xen các môn học hoặc các hoạt động khác nhau một cách hợp lý nhằm thay đổi trạng thái hoạt động cho trẻ, tạo hứng thú cho trẻ trong học tập giúp cho giờ học đạt kết quả cao nhất. Khi soạn giáo án tiết học hoặc các hoạt động cô phải soạn các hình thức, các biện pháp sao cho thay đổi được trạng thái hoạt động của trẻ, phải kết hợp giữa động và tĩnh. Tạo cho trẻ một tâm trạng thoải mái trong giờ học, thu hút sự tập trung chú ý của trẻ. Trong quá trình tổ chức các hoạt động hình thành biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ nói chung và hình thành biểu tượng về hình dạng nói riêng, tôi đã linh hoạt tích hợp các môn học khác như môi trường xung quanh, âm nhạc, tạo hình để thay đổi trạng thái hoạt động và thu hút trẻ. Ví dụ: Tiết dạy: Nhận biết hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật. Chủ đề: Trường mầm non. Trong phần gây hứng thú, thu hút trẻ vào hoạt động tôi tổ chức cho cô và trẻ cùng hát vận động bài hát: “Quả bóng” của nhạc sỹ: Huy Trân. Phần ôn luyện củng cố về các hình, để thay đổi trạng thái hoạt động của trẻ tôi đã lồng ghép hoạt động tạo hình vào hoạt động đó là chơi: Ghép hình từ các hình đã học; ghép hình ô tô, lật đật. Ngược lại, tôi cũng đã lồng ghép nội dung hình thành biểu tượng về hình dạng cho trẻ vào tất cả các môn học khác: Tạo hình, âm nhạc, môi trường xung quanh, làm quen với tác phẩm văn học một cách linh hoạt và nhẹ nhàng. Ví dụ: Hoạt động tìm hiểu: Một số đồ dùng trong gia đình. Chủ đề: Gia đình. Tôi cho trẻ chơi trò chơi: Sắp xếp đồ dùng. Cách chơi: Chia trẻ thành 3 nhóm, mỗi nhóm sẽ chọn và xếp một loại đồ dùng vào ngôi nhà có các hình theo yêu cầu của cô: Nhóm 1 chọn đồ dùng để ăn xếp vào ngôi nhà có dạng hình vuông; Nhóm 2 chọn đồ dung để uống xếp vào ngôi nhà có dạng hình tròn; Nhóm 3 chọn và xếp đồ dùng để ngủ vào ngôi nhà có dạng hình chữ nhật. Kết thúc bản nhạc đội nào chọn nhanh, đúng và sắp xếp gọn gàng là thắng cuộc. Để giúp trẻ khắc sâu và nhớ lâu về các hình mà trẻ vừa học, tôi đã lồng ghép nội dung hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ ở tất cả các hoạt động trong ngày. Ví dụ: Chuẩn bị giờ ăn cô yêu cầu trẻ giúp cô lấy khăn lau tay để vào rổ nhựa hình vuông, để khăn lau bàn vào rổ hình tròn. Hoặc cất mũ vào tủ có cửa là hình chữ nhật Tuỳ theo từng tiết dạy mà cô giáo có thể sử dụng các hình thức và đưa ra các phương pháp tích hợp cho hợp lý. 4. Biện pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động. Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các hoạt động hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ là đưa các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại- chủ yếu là máy tính, máy chiếu, bảng điện tử thông minh vào trong quá trình giảng dạy, nhằm đạt được những mục đích yêu cầu của hoạt động. Phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non tạo ra một môi trường dạy học tương tác cao, sống động, hứng thú và đạt hiệu quả cao của quá trình dạy học đa giác quan cho trẻ. Giúp trẻ phát triển những kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin như sử dụng con chuột, bàn phím... Giáo viên nghiên cứu các phần mền giáo dục như KIDSMART, KIDPIX, POWERPOINT, CONVERTER, PHOTOSHOP, 3M DIGITAL... để thiết kế các bài giảng, các trò chơi phù hợp với nội dung của bài dạy để dạy trẻ. Tích cực vào mạng tìm hiểu những nội dung, hình ảnh, video, giáo án điện tử, quay phim, chụp ảnh, cập nhật những thông tin mới nhất ...có nội dung liên quan đến nội dung dạy trẻ để ứng dụng vào bài dạy. VD:Trong tiết dạy: Ôn luyện hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn, hình tam giác. Chủ đề: Một số nghề phổ biến. Tôi đã thiết kế trò chơi: “Người kỹ sư tài ba” trên powerpoint, dựa trên trò chơi thiết kế đồ vật - đĩa ngôi nhà khoa học của SAMMY trong chương trình KIDSMART. Trong trò chơi này trẻ sẽ sử dụng con chuột để chọn các hình theo yêu cầu và ghép thành ngôi nhà hay đồ dung, phương tiện giao thông... Ứng dụng công nghệ thông tin được sử dụng trên các tiết học, để biện pháp này đạt được hiệu quả tối ưu thì nhiệm vụ của người giáo viên là rất quan trọng. Giáo viên cần lựa chọn nội dung, hình ảnh đưa vào bài dạy cho phù hợp. Tuỳ vào từng nội dung của tiết dạy mà giáo viên xác định đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào thời điểm nào là tốt nhất: có thể đưa vào ngay lúc đầu tiết học hoặc giữa hay vào cuối tiết học. Tuy nhiên về nội dung hình dạng thì chủ yếu đưa vào phần đầu để gây hứng thú hoặc vào phần giữa của tiết học để chơi các trò chơi ông luyện, củng cố kiến thức đã học. Ví dụ 1: Trong tiết dạy trẻ phân biệt hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật. Sau khi giới thiệu cho trẻ ôn nhận biết, khảo sát về các hình, tôi đã sử dụng phần mềm 3M để vẽ và giới thiệu về những đặc điểm đặc trưng của các hình cho trẻ xem như: hình tròn - lăn được về các phía, hình vuông- không lăn được và có 4 cạnh bằng nhau... hoặc chơi trò chơi hình gì biến mất hình gì xuất hiện để ôn luyện củng cố cho trẻ về các hình. Tôi đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào ngay thời điểm đầu tiết học, nhằm gây hứng thú, thu hút trẻ vào đối tượng kiến thức cần nằm. Ví dụ: Tiết dạy: Ôn nhận biết hình vuông, tròn, tam giác, chữ nhật. Trong chủ đề: Thế giời động vật. Hoạt động 1: Ổn định tổ chức gây hứng thú. + Dẫn trẻ đi chơi ở rạp xiếc (Ở địa phương không có rạp xiếc). + Đến nơi cô mở những hình ảnh về rạp xiếc cho trẻ xem. + Cho trẻ xem những hình ảnh về các con vật biểu diễn xiếc: Khỉ đi xe đạp, voi lă
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_hinh_thanh_bieu_tu.doc