Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mầm non
Như chúng ta đã biết, Trong cơ thể, vật chất bị tiêu hao và bị phân giải để cung cấp năng lượng cho hoạt động sống. Để bù vào phần vật chất đã bị tiêu hao, đồng thời để cơ thể luôn luôn đổi mới và phát triển thì cơ thể phải lấy chất dinh dưỡng từ bên ngoài và cơ thể dưới dạng thức ăn. Thức ăn gồm các chất có cấu trúc phức tạp, gồm những phân tử quá lớn nên cơ thể không thể sử dụng ngay mà phải qua hai quá trình biến đổi: Biến đổi về lý học và biến đổi về Hoá học.
Sự biến đổi thức ăn về hoá học được thực hiện nhờ sự tham gia của các men tiêu hoá. Vì thế, thức ăn được biến đổi từ những hợp chất hữu cơ phức tạp thành những chất đơn giản để cơ thể hấp thụ được.
Quá trình biến đổi và hấp thụ thức ăn được gọi là quá trình tiêu hoá.
ống tiêu hoá chủ yếu được cấu tạo từ mô cơ trơn, bên trong có niêm mạc bao phủ. Các tế bào niêm mạc tiết ra niêm dịch. Lớp dưới niêm mạc gồm hệ thống các lông ruột, mạng lưới mao mạch, mạch bạch huyết và các sợi thần kinh; ống tiêu hoá gồm có miệng, hầu, thực quản, dạ dầy và ruột.
* Khoang miệng: gồm có răng và lưỡi.
- Răng: có tác dụng cắt, xé và nghiền nhỏ thức ăn. Tuỳ theo hình dạng và chức phận mà người ta phân biệt ra làm 3 loại răng: răng nanh, răng cửa và răng hàm. ở trẻ lúc đầu xuất hiện răng sữa. Mầm của răng sữa xuất hiện rất sớm nhưng phải sau khi sinh 5 đến 6 tháng các răng sữa mới bắt đầu mới mọc và đến 20 tháng tuổi trẻ đã có đủ 20 răng sữa. Đến năm 6 tuổi răng sữa đã rụng và răng mới mọc lên bền vững hơn. Đến 15 – 17 tuổi sự thay răng kết thúc.
Răng có thể xuất hiện sớm hơn hay muộn hơn phụ thuộc vào sự phát triển cá nhân, phụ thuộc vào di truyền và chịu ảnh hưởng của các tác động với cơ thể trong thời kỳ phát triển của thai và sau khi sinh. Và đặc biệt là chật lượng dinh dưỡng cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng với việc xuât hiện và phát triển của răng.
* Lưỡi: là cơ quan hình trái xoan, được cấu tạo bằng cơ rất linh động, bao bên ngoài lưỡi là lớp màng nhầy trong đó có màu và dây thần kinh. Lưới có vai trò chuyển thức ăn trong khi nhai, thu nhận cảm giác và vị giác nhờ cac vị thể vị giác trên mặt lưỡi.
* Hầu – thực quản: hầu và thực quản có nhiệm vụ dồn thức ăn từ miệng xuống dạ dầy. Thực quản đi vào khoang bụng qua một lỗ đặc biệt ở cơ hoành. ở trẻ sơ sinh, thực quản có hình chóp nón. Thành thực quản còn mỏng, tổ chức đàn hồi và lớp cơ chưa phát triển đầy đủ nên trẻ dễ bị nghẹn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mầm non
h mạnh; giữa các bữa ăn không bao giờ cho ăn bánh kẹo ngọt; cho trẻ ăn không đúng lúc sẽ làm giảm khẩu vị, làm ức chế trung tâm điều khiển ăn uống và làm phá hoại chế độ ăn uống đúng đắn. Ngoài ra, thức ăn có hình thức đẹp, mùi vị hấp dẫn thì sẽ gây cảm giác thèm ăn cuả trẻ. Mọi khẩu phần giành cho trẻ em thì phải cho ăn cùng một lúc để trẻ quen ăn hết khẩu phần. 3. Cơ sở thực tế: ở nước ta, qua việc nghiên cứu vấn đề tổ chức bữa ăn cho trẻ ở trường mầm non mới được quan tâm mấy năm gần đây trong công trình nghiên cứu: “ Khảo sát khẩu phần ăn trưa và bữa phụ” của tác giả Lê Thị Khánh Hoà ( 1983 ) có đưa ra khảo sát khẩu phần ăn trưa năng lượng của trẻ ở trường mầm non. Kết qủa nghiên cứu cho thấy tình hình cung cấp năng lượng cho trẻ ở trường mầm non còn thấp so với tiêu chuẩn; tỉ lệ các chất sinh năng lượng chưa cân đối, chưa hợp l ý, trong đó lượng Gluxit quá cao, còn lượng Lipit thì quá thấp. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra một nguyên nhân dẫn đến tình hình trên như: bếp ăn mới được hình thành, cơ sở vật chất thiếu thốn, có nhiều quan niệm coi nhẹ việc nuôi nên các hình thức tổ chức còn nghèo nàn.Từ đó tác giả đưa ra các giải pháp: Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho các trường mầm non để đảm bảo cho việc tổ chức ăn cho trẻ; đào tạo đội ngũ cô nuôi có trình độ hiểu biết về dinh dưỡng cho trẻ. Khi công trình nghiên cứu: “ Điều tra tình trạng dinh dưỡng của trẻ mẫu giáo ở một số trường phía Bắc” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm ( 1989) và “tình hình cung cấp dưỡng chất cơ bản cho trẻ ở một số trường mẫu giáo” của tác giả Võ Thị Cúc ( 1992) cũng cho thấy việc cung cấp dưỡng chất cơ bản ( Gluxit, Lipit) cho trẻ mẫu giáo ở các trường mầm non của ta hiện nay còn thấp. Chúng ta mới chỉ cung cấp được khoảng 70% nhu cầu cần thiết tối thiểu năng lượng cho trẻ mẫu giáo và năng lượng đó chủ yếu là do Gluxit mang lại. Mặt khác hai tác giả cùng nhấn mạnh việc nâng cao hơn nữa kiến thức khoa học về dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo đối với các cơ sở nuôi dạy trẻ, tránh tình trạng cho ăn theo kinh nghiệm hoặc tổ chức dinh dưỡng thiếu lí luận toàn diện, chặt chẽ và kém hiệu quả. Đồng thời, nhà trường và gia đình cần có sự hiểu biết đúng đắn về mối quan hệ giữa nuôi và dạy, giữa sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tinh thần của trẻ mẫu giáo. Như vậy, các công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều, chủ yếu là điều tra, đánh giá và tổng kết về tình hình dinh dưỡng, khẩu phần ăn của trẻ mầm non chữ chưa quan tâm đi sâu vào cách tổ chức bữa ăn và đặc biệt là bữa ăn trưa cho trẻ. Do tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu và do yêu cầu thực tiễn nên yêu cầu “ Tổ chức bữa ăn trưa của trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non” là cần thiết. Như chúng ta đã biết, Trong cơ thể, vật chất bị tiêu hao và bị phân giải để cung cấp năng lượng cho hoạt động sống. Để bù vào phần vật chất đã bị tiêu hao, đồng thời để cơ thể luôn luôn đổi mới và phát triển thì cơ thể phải lấy chất dinh dưỡng từ bên ngoài và cơ thể dưới dạng thức ăn. Thức ăn gồm các chất có cấu trúc phức tạp, gồm những phân tử quá lớn nên cơ thể không thể sử dụng ngay mà phải qua hai quá trình biến đổi: Biến đổi về lý học và biến đổi về Hoá học. Sự biến đổi thức ăn về hoá học được thực hiện nhờ sự tham gia của các men tiêu hoá. Vì thế, thức ăn được biến đổi từ những hợp chất hữu cơ phức tạp thành những chất đơn giản để cơ thể hấp thụ được. Quá trình biến đổi và hấp thụ thức ăn được gọi là quá trình tiêu hoá. ống tiêu hoá chủ yếu được cấu tạo từ mô cơ trơn, bên trong có niêm mạc bao phủ. Các tế bào niêm mạc tiết ra niêm dịch. Lớp dưới niêm mạc gồm hệ thống các lông ruột, mạng lưới mao mạch, mạch bạch huyết và các sợi thần kinh; ống tiêu hoá gồm có miệng, hầu, thực quản, dạ dầy và ruột. * Khoang miệng: gồm có răng và lưỡi. - Răng: có tác dụng cắt, xé và nghiền nhỏ thức ăn. Tuỳ theo hình dạng và chức phận mà người ta phân biệt ra làm 3 loại răng: răng nanh, răng cửa và răng hàm. ở trẻ lúc đầu xuất hiện răng sữa. Mầm của răng sữa xuất hiện rất sớm nhưng phải sau khi sinh 5 đến 6 tháng các răng sữa mới bắt đầu mới mọc và đến 20 tháng tuổi trẻ đã có đủ 20 răng sữa. Đến năm 6 tuổi răng sữa đã rụng và răng mới mọc lên bền vững hơn. Đến 15 – 17 tuổi sự thay răng kết thúc. Răng có thể xuất hiện sớm hơn hay muộn hơn phụ thuộc vào sự phát triển cá nhân, phụ thuộc vào di truyền và chịu ảnh hưởng của các tác động với cơ thể trong thời kỳ phát triển của thai và sau khi sinh. Và đặc biệt là chật lượng dinh dưỡng cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng với việc xuât hiện và phát triển của răng. * Lưỡi: là cơ quan hình trái xoan, được cấu tạo bằng cơ rất linh động, bao bên ngoài lưỡi là lớp màng nhầy trong đó có màu và dây thần kinh. Lưới có vai trò chuyển thức ăn trong khi nhai, thu nhận cảm giác và vị giác nhờ cac vị thể vị giác trên mặt lưỡi. * Hầu – thực quản: hầu và thực quản có nhiệm vụ dồn thức ăn từ miệng xuống dạ dầy. Thực quản đi vào khoang bụng qua một lỗ đặc biệt ở cơ hoành. ở trẻ sơ sinh, thực quản có hình chóp nón. Thành thực quản còn mỏng, tổ chức đàn hồi và lớp cơ chưa phát triển đầy đủ nên trẻ dễ bị nghẹn. * Dạ dầy: là phần rộng nhất của ống tiêu hoá. Đó là nơi chứa thức ăn và đồng thời là nơi thức ăn biến đổi về lý và hoá học nhờ các cơ và tuyến của dạ dầy. Dạ dầy được cấu tạo bởi ba lớp cơ chắc. Trong niêm mạc của dạ dầy có những tuyến nhờn tiết dịch vị và axit HCl nên dịch trong dạ dầy có tính axit cao. Trong dịch có các Enzym tiêu hoá thức ăn. * Ruột: ruột non dai 5- 6 m. Niêm mạc của ruột non có nhiều nếp gấp và có nhiều lông ruột. Mỗi lông ruột có chứa hệ thống mạch máu và mạch bạch huyết. Thành của ống ruột rất mỏng tạo điều kiện cho sự hấp thụ thức ăn. Trong niêm mạc củ ruột non cũng có nhiều tuyến nhỏ tiết ra dịch ruột chứa enzym tiêu hoá. Ruột già dài 1,3 – 1,5m trong đó chứa hệ thống vi khuẩn phong phú ( chủ yếu là vi khuẩn hoại sinh), có tác dụng phân huỷ các chất bã của thức ăn để tạo thành phân. Đoạn cuối cùng của ruột già gọi là ruột thẳng. Và tận cùng là hậu môn, nơi thải phân ra ngoài. Ngoài ra, tham gia vào chức năng tiêu hoá còn có các tuyến tiêu hoá. * Tuyến nước bọt nằm chung quanh khoang miệng. Nó là những ống hình chữ n, tiết ra nước bọt theo ống dẫn đổ vào khoang miệng. Thành phần của tuyến nước bọt có cac enzym. Số lượng và thành phần dịch tiết ra phụ thuộc vào tính chất lý và hoá học của thức ăn. Nước bọt có tác dụng làm nhão thức ăn khô và cuốn khỏi niêm mạc miệng những chất có hại không cần thiết. Các tuyến nước bọt tiết ra theo phản xạ: thức ăn vào miệng kích thích các thụ thể của các dây thần kinh vị giác, các xung động đó được lan truyền tới trung khu điều khiển việc tiết nước bọt ở hành tuỷ, rồi từ đó theo dây thần kinh ly tâm đến tuyến nước bọt, kích thích các tuyến nước bọt tiết ra nước bọt. * Tuyến dạ dầy có khoảng 5 triệu tuyến nhỏ nằm trong niêm mạc của dạ dầy và hàng ngày tiết khoảng hai lít dịch vị. Trong dịch vị chứa HCl và men pepxin, prezua HCl vừa có tác dụng giúp men pepxin hoạt động, vừa có tác dụng bảo vệ, tiêu diệt phần lớn vi sinh vật thâm nhập vào dạ dầy cùng với thức ăn. * Tuyến tuỵ: Trong dịch tuỵ rất giầu enzym tiêu hoá tiết dịch tiêu hoá và đổ vào tá tràng có tác dụng tiêu hoá tất cả các loại thức ăn. * Tuyến gan: thì tiết ra mật, có tác dụng hỗ trợ, kích thích tiêu hoá và hấp thụ thức ăn. Sự tiêu hoá thức ăn được diễn ra ở tất cả các phần của ống tiêu hoá, nhưng quá trình này được thể hiện rõ nhất ở 3 nơi: khoang miệng, dạ day và ruột non. Tại khoang miệng thức ăn được tiêu hoá cơ học là chủ yếu. Thức ăn vào miệng được răng cắt xé, nghiền nát rồi tẩm với nước bọt là thành một chất nhão dính, rồi bì lưỡi đẩy vào hầu. Khi các cơ quan thụ cảm ở hầu và ở gốc lưỡi bị kích thích sẽ gây nên phản xạ nuốt. Nhờ có phản xạ nuốt mà thức ăn được đẩy từ khoang miệng xuống thực quản và dạ dày. Trong nứơc bọt có mem ptyalin, men này hoạt động trong môi trường kiềm và có tác dụng biến đổi thành phần tinh bột thành đường mantôzơ. Tại dạ dày thức ăn sẽ được lưu giữ lại tuỳ thuộc vào bản chất của thức ăn. Gluxit có thời gian lưu giữ khoảng 3 – 4 giờ. .. Thức ăn xuống đến dạ dày nhờ có sự cọ xát của các cơ ở thành dạ dày, làm thức ăn tiếp tục được nghiền nhỏ và trộn đều với dịch vi do tuyến dịch vị tiết ra. Thức ăn tới dạ dày khoảng 5 – 6 phút thì tuyến dịch vị bắt đầu tiết dịch vị.Men pepxin trong dic vị hoạt động trong môi trường axit HCl làm biến đổi prôtêin thành aminôaxit. Khi dịch vị chưa ngấm vào thức ăn và môi trường thức ăn trong dạ dày chưa chuyển sang môi trường axit thì tinh bột vẫn tiếp tục được biến đổi thành prôtêin dưới tác dụng của men ptialin có trong nước bọt. ở trẻ em có men ptyalin có tác dụng tiêu hoá prôtêin của sữa. Men lipaza biến đổi lipit thành prôtêin và axit béo. Tuy nhiên trong dạ dày có men lipaza hoạt động chủ yếu. Sự tiêu hoá được diễn ra chut yếu ở ruột non. Đây là giai đoạn quan trọng nhất và cần thiết nhất trong một quá trình tiêu hoá và tại đây thức ăn được biến đổi đầy đủ nhất và triệt để nhất. Thức ăn xuống đến ruột non, nhờ quá trình co bóp của các cơ ở thành ruột non mà thức ăn được tiếp tục nhào trộn và ngấm dần các dịch tiêu hoá ( dịch tiêu hoá đến ruột và mật). Đồng thời nhờ sự co bóp của các cơ quan này mà thức ăn được đẩy dần xuống ruột già, thời gian thức ăn được lưu giữ ở ruột non khoảng 3 – 5 giờ. Tuyến dịch tuỵ và dịch ruột có chứa đủ các men tiêu hoá prôtêin, Gluxit, lipit. Gluxit -> Mantoza -> Glucôza. Prôtit -> axitamin. Lipit - > Glyxêrin + axitbéo. Dịch ruột không tiết ra trong thức ăn mà nó chỉ được tiết ra ở những phần ruột đang tiếp xúc với hồ nhão của thức ăn. Trong dịch ruột có đủ ba loại men để tiêu hoá: prôtit, lipit và gluxit. Các men tiêp tục biến đổi nốt phần thức ăn còn lại đến các sản phẩm là các aminôaxit, glucôza, glyxêrin và axít béo. Dịch mật không chứa men tiêu hoá, nhưng có tác dụng làm tăng sự hoạt động của các men trong dịch tuỵ, dịch ruột và đặc biệt là đối với sự tiêu hoá mỡ. Dịch mật có tác dụng phân chia lipit thành những hạt nhỏ và tăng diện tích tiếp xúc với lipit của men lypaza. Ngoài ra, axit béo được tạo thành trong quá trình chuyển hoá lipit lại cùng với mật làm thành một chất hoà tan trong nước và dễ dàng ngấm qua thành ruột và máu. Mặt khác, Sự hấp thụ thức ăn là quá trình vận chuyển các sản phẩm tiêu hoá ( aminôaxit, glucôza, glyxerin, chất béo) vào máu. Sự tiêu hoá thức ăn diễn ra suốt dọc chiều dài của ống tiêu hoá nhưng chủ yếu diễn ra ở ruột non vì: ở ruột non có lớp niêm mạc phát triển, có nhiều nếp nhăn có lông ruột làm cho diện tích hấp thụ tăng lên đáng kể. Ngoài ra các tế bào ở ruột non có cấu trúc thuận lợi cho sự vận chuyển các chất trong ống tiêu hoá vào máu. Đến ruột non toàn bộ thức ăn đã biến đổi đến mức đơn giản nhất để có thể hấp thụ được, Sự hấp thụ thức ăn diễn ra theo hai cơ chế chủ động và thụ động: Cơ chế thụ động: nồng độ của các chất dinh dưỡng trong ống tiêu hoá cao hơn trong máu, các chất dinh dưỡng này sẽ được gắn vào các chất vận chuyển . Nhờ các chất vận chuyển mà các chất dinh dưỡng được vận chuyển vào máu. Dung dịch dinh dưỡng ( aminôaxit, gluxêrin, axit béo) được thấm vào máu và thấm vào dịch huyết của niêm mạc ruột non. Trong đó aminôaxit, glucôza được thấm thẳng vào máu và bạch huyết. Sau đó sẽ tới gan và đổ vào tĩnh mạch chủ dưới rồi theo vòng tuần hoàn tới các cơ quan trong cơ thể. Còn phần lớn các chất béo được chuyển vào mạch bạch huyết rồi vào máu. Sự hấp thụ thức ăn là một quá trình sinh lý được thực hiện một cách chon lọc qua màng ống. Quá trình này phụ thuộc vào thành phần, nguồn gốc của thức ăn, cách chế biến và sự hấp thụ của cơ thể. Thức ăn xuống tơi ruột già thì phần lớn các chất dinh dưỡng đã được hấp thụ, ruột già chỉ hấp thụ thêm một số chất dinh dưỡng, chủ yếu là các chất béo và cô đặc lại chât bã. Tại đây một số vi khuẩn phân huỷ các chất còn lại: prôtit, gluxít và sau đó lên men để tạo thành phân. Phân được đẩy ra ngoài qua sự cử động thụ động của ruột già và theo cơ chế phản xạ Một điều chúng ta quan tâm là sự thống nhất hoạt động trong cơ quan tiêu hoá. Cơ quan tiêu hoá gồm nhiều bộ phận, mỗi bộ phận lại có một chức năng riêng và là tiền đề hạt động cho các bộ phận tiếp theo. Mặt khác, giữa các bộ phận trong cơ quan tiêu hoá có sự phân phối chặt chẽ và chính xác nhờ ảnh hưởng của hệ thần kinh và thể dich. Vì thế, kết quả của sự phối hợp này là tạo ra các chất cần thiết cho cơ thể và loại bỏ nhanh các loại thức ăn không sử dụng được, thức ăn ôi thiu ra ngoài. Chẳng hạn, thức ăn ôi thiu hoặc có mùi khó chịu vào miệng thì người ta sẽ oẹ nó ra, nếu ăn phải thức ăn thiu mà không biết thì các chất có hại trong thức ăn sẽ kích thích các đầu múp của dây thần kinh hướng tâm nằm trong dạ dày. Để đáp lại kích thích đó các cơ ở thành ruột co bóp mạnh nối tiếp nhau và lan truyền theo hướng dạ dày. Các tuyến ngược chiều của sự co bóp này xuất hiện trong thành dạ dày và thực hiện sinh ra chứng buồn nôn, nhờ đó cơ thể loại được thức ăn không thích hợp và có hại ra ngoài. Nếu thức ăn ôi thiu hay có độc sẽ xâm nhập xa hơn trong hệ tiêu hoá thì có thể loại nó ra bằng hai cách: Thành ruột co bóp đột ngột đẩy thức ăn về phía ruột thẳng và khối lượng thức ăn đi nhanh qua toàn bộ ruột và thải ra ngoài cơ thể. Sở dĩ việc di chuyển khối lượng thức ăn được mau lẹ là nhờ trong ruột có lượng nước lớn đi vào. Mầm mống của sự tiêu hoá được hình thành sớm, ngay từ khi thai được bốn tuần tuổi và bắt đầu hoạt động khi thai được bốn đến năm tháng. Khi đó phản xạ nuốt thể hiện rõ và có một số enzym tiêu hoá được tiết ra . Tuy nhiên trong thời kỳ thai nhi, hoạt động của hệ tiêu hoá còn rất yếu ớt. đối với trẻ sơ sinh, động tác mút là biện pháp duy nhất để trẻ lấy thức ăn. ở trẻ nhỏ niêm mạc ruột chưa bền chắc nên dẽ bị viêm ruột. Màng treo ở ruột ở trẻ em thường dài nên dễ bị lồng ruột hay xoắn ruột. Cơ thực quản và cơ dạ dầy củ trẻ mỏng, yếu nên trẻ dễ bị nghẹn hoặc bị nôn trớ nhất là sau khi trẻ ăn nhiều. Niêm mạc ruột non chưa bền chắc nên trẻ dễ hấp thụ những sản phẩm thức ăn của quá trình tiêu hoá và vi khuẩn dễ xâm nhập gây ra rối loạn tiêu hoá, viêm ruột. Hoạt động của cơ quan tiêu hoá phụ thuộc vào sự muốn ăn của cơ thể. Quá trình muốn ăn có liên quan đến sự hưng phấn của các trung khu thần kinh điều khiển sự ăn uống của não bộ, từ đó liên quan đến sự tăng cường các phản xạ ăn uống. Vì vậy, nếu ta không muốn ăn thì dịch tiêu hoá sẽ tiết ra ít, thức ăn được tiêu hoá sẽ chậm hơn và ít hiệu quả hơn. Có nhiều biện pháp tạo ra sự muốn ăn của cơ thể và một trong những biện pháp đó là thành lập ở trẻ những phản xạ ăn uống có điều kiện. Muốn tạo ra cảm giác muốn ăn của cơ thể thì cần phải hình thành ở trẻ những phản xạ ăn uống có điều kiện và đặc biệt cần hình thành phản xạ có điều kiện ăn uống về thời gian. Khi phản xạ này được thành lập một cách bền vững thì chỉ đến các giờ ăn quen thuộc các cơ quan tiêu hoá bắt đầu tiết dịch trước khi ăn. Khi đó ta có cảm giác muốn ăn và khi được ăn sẽ ăn ngon miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hoá nhanh. Cảm giác muốn ăn của trẻ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: phòng ăn sạch sẽ, thoáng mát, việc bày trí đồ đạc trong phòng ăn là những nhân tố quan trọng tạo ra cảm giác muốn ăn của cơ thể. Khi vào một phòng ăn thoáng mát, sạch sẽ, được ngồi ăn trên bàn ghế sạch sẽ người ta sẽ có cảm giác muốn ăn, ngoài ra dụng cụ ăn uống như: bát, đũa, thìasạch sẽ vệ sinh cũng giúp ta ăn ngon miệng. Ngoài ra cách chế biến món ăn, mùi thơm của thức ăn sẽ kích thích dịch tiêu hoá, khi ta đói mà ngửi thấy mùi thơm của thức ăn thì ngay lúc đó cơ quan tiêu hoá sẽ tiết ra dịch. Hoặc thức ăn được bày biện lịch sự, gọn gàngsẽ tạo cảm giác muốn ăn của cơ thể. Trong bầu không khí trước và trong khi ăn có ảnh hưởng rất lớn đến cảm giác muốn ăn của cơ thể. Người ta chỉ muốn ăn và ngon miệng khi mà con người cảm thấy thoải mái, không bị ức chế bởi một lý do nào đó vì vậy trong khi ăn cần tạo bầu không khí ấm cúng vui vẻ, yên tĩnh, nhẹ nhàng tránh những tin gây xúc động mạnh thì cảm giác ngon miệng sẽ được tăng lên. Con người ta cần ăn để sống, ăn uống là một trong những nhu cầu của con người. Khoa học dinh dưỡng giúp chúng ta hiểu được con người sống ở thức ăn và từ đó xây dựng các chế độ ăn hợp lý cho từng độ tuổi, trạng thái sinh lý, bệnh lý. Đối với trẻ mầm non cơ thể đang trong giai đoạn phát triển nhanh, vì vậy đòi hỏi khẩu phần ăn phải đầy đủ về số lượng và chất lượng, ăn uống rất cần thiết cho cơ thể phát triển về thể chất và tinh thần vì thế thức ăn cung cấp vật liệu cần thiết , phát triển và phục hồi sức khoẻ cho cơ thể. Thớc ăn chính là sợi dây liên lạc giữa cơ thể và môi trường và cung cấp năng lượng cho tất cả các bộ máy trong cơ thể hoạt động của hệ thần kinh, tuần hoàn, hô hấp, bài tiết, tiêu hoá, cơ bắp vì thế chẳng có tế bào nào trong cơ thể giám từ chối thức ăn. Không những thế thức ăn còn cung cấp những chất cần thiết để cơ thể lớn lên và phát triển. Từ cái thai lớn lên thành em rồi thành người lơn, không thể trông cậy vào gì khác ngoài thức ăn. Thức ăn còn đem lại vật liệu để cơ thể sửa chữa những bộ phận hư hỏng, tái tạo lại những cơ quan hao mòn quá trình sống. Ví dụ: cứ vài giờ tế bào trong ruột lại chết vì thế phải tạo ra tế bào mới thay thế tế bào cũ. Nói chung các cơ quan trong cơ thể đều nhờ vào thức ăn để tồn tại và phát triển. ăn uống là một trong những biện pháp giúp cơ thể khoẻ mạnh. Trẻ khoẻ mạnh, giúp trẻ có sự cận bằng giứa tuôi, cân nặng và chiều cao, cơ thể phát triển giúp cơ thể tránh sự nhiễm trùng, tinh thần mở mang điều hoà, khuôn mặt vui tươi của tuổi thơ. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cân nặng và chiều cao, như: khí hậu, yếu tố giống nòi, chế độ dinh dưỡngnhưng trong đó chất lượng của dinh dưỡng vẫn là chủ yếu. Trẻ em nếu ăn uống hợp lý thì tất phát triển về chiều cao. Qua các công trình nghiên cứu cho thấy: ngay trong năm thứ nhất, mỗi tháng đầu trẻ cao lên 3cm và 8 tháng sau mỗi tháng cao lên 3,5cm. Theo Freud- nhà phân tâm học ( người áo ) thì trong trường hợp thiếu ăn thì xương cốt vẫn dài ra, trái lại cân nặng đứng nguyên hoặc sụt đi. Vì vậy trẻ em chỉ phát triển được hài hoà, cân đối khi mà được ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng. Nếu trẻ ăn uống thiếu thốn quá hay ăn uống không điều độ thì sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hoá, phá hoại quá trình trao đổi chất từ đó làm cho cơ thể trẻ yếu đi và dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng. Theo số liệu điều tra của tổng cục thống kê thì tỷ lệ suy dinh dưỡng hiện nay ở Việt Nam là rất lớn, đây là một tỷ lệ khá cao so với quy định trên thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do ăn uống thiếu chất và chế độ chăm sóc chưa hợp lý.Những trẻ suy dinh dưỡng rất dễ mắc các bênh tiêu chẩy, viêm đường hô hấp khi mắc bệnh thì thường nặng hơn và có tỷ lệ tử vong cao. Như vậy, ăn uống có vai trò rất to lớn đối với sức khoẻ và sự phát triển thể chất của trẻ. Đối với trẻ mầm non, nhu cầu về dinh dưỡng rất cao.Qua nghiên cứu cho thấy trẻ em cần nhiều thức ăn hơn người lơn. Chẳng hạn theo dõi cân của một trẻ mạnh khoẻ sẽ rõ. Từ 4 tháng tuổi cân nặng gấp đôi lúc lọt lòng, khi được 1 năm số cân sẽ tăng gấp 3. Cung cấp về dinh dưỡng của trẻ em theo tuổi được Viện dinh dưỡng đưa ra với trẻ < 1 tuổi cần cung cấp 1000Kcalo/ngày trẻ < 1 - 3 tuổi cần cung cấp 1300Kcalo/ngày trẻ < 4 – 6 tuổi cần cung cấp 1500Kcalo/ngày Dựa vào căn cứ trên nên chế độ ăn trong ngày của trẻ được chia thành 3 – 4 bữa trong đó tỷ lệ các bữa hợp lý nên là: Bữa sáng 25%, bữa trưa 40%, bữa xế 15%, bữa tối 20%. Trong một ngày thức ăn được phận phối cho bữa trưa là nhiều calo hơn khoảng 30 – 40% khẩu phần ăn hàng ngày, vì bữa trưa cần cung cấp năng lượng cho trẻ để bù đắp cho sự tiêu hao năng lượng ( do hoạt động ) và đảm bảo năng lượng cho trẻ hoạt động tiếp theo trong ngày. Trẻ đến trường mầm non ngay từ buổi sáng đã tham gia vào các hoạt đông trong chế độ sinh hoạt một ngày, như: thể dục sáng, hoạt động học tập, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc trẻ rất hiếu động nên thường tham gia các hoạt động một cách tích cực. Khi trẻ hoạt động tích cực sẽ tiêu hao nhiều năng lượng. Với cơ thể trẻ sẽ lấy năng lượng ở đâu để hoạt động, đương nhiên nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể là thức ăn. Thường bu
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_bua_an_trua_cho_tre_mam_non.doc