SKKN Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo

Các biện pháp giải quyết

3.1. Biện pháp 1: Xây dựng nề nếp, thói quen cho trẻ.

 Từ đầu năm học việc xây dựng nề nếp, thói quen cho trẻ là việc quan trọng đầu tiên. Một số trẻ ở lớp rất hiếu động, hay nói chuyện riêng trong giờ học nên tôi xếp những cháu nghịch ngồi cạnh những cháu ngoan, luyện cho trẻ thói quen ngồi ngoan, chú ý, hứng thú trong giờ học. Trong giờ hoạt động tôi luôn nhắc trẻ ngồi đúng tư thế, biết lắng nghe cô nói từ đó trẻ tập trung vào hoạt động hơn.

VD : Trong lớp ngoài những trẻ ngoan, biết nghe lời cô thì còn một số bạn nghịch, hay nói chuyện trong giờ học tôi thường gọi những trẻ đó nên phát biểu, nếu trẻ chưa trả lời được tôi động viên khuyến khích trẻ, dù trẻ trả lời chưa đúng thì tôi vẫn động viên, khuyến khích tuyên dương trước lớp. Trẻ thấy thích thú khi được khen và sẽ ngoan hơn, chú ý, tập trung hơn trong giờ học.

3.2. Biện pháp 2: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.

 Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết cho chương trình đổi mới. Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn. Tôi đã đi sâu vào môi trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện tranh chữ to tôi còn đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động như: một số con rối dẹt có bánh xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dán bồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh chuyện sáng tạo hoặc cắt rời các con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo.

3.3. Biện pháp 3: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.

 Bên cạnh một môi trường hoạt động với đầy đủ các đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo. Khi dạy trẻ sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập chuyện tranh sưu tầm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhận xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện, cho trẻ xem qua đĩa hình các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức. Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng cố và khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ.

 Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan:

- Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động.

- Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật trong tranh.

- Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.

- Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hợp di chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo nhân vật sử dụng. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo đồ dùng trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dùng trực quan ở các chủ đề khác. Thông qua các câu chuyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng các ngữ điệu ngắt, nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình đối với tác phẩm. Trẻ bắt trước giọng kể diễn cảm của cô. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ, vốn từ được làm giàu thêm và qua đó trẻ cảm nhận được sự phong phú của ngôn ngữ.

3.4. Biện pháp 4: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.

 Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích hợpcác môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn. Âm nhạc là môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “Thương con mèo”, “ Một con vịt”, “ Đố biết con gì”, “ Trời nắng trời mưa” giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp bới nội dung câu chuyện. Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở trạng động như trò chơi: Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng trời mưa, cáo và thỏ

 Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở lúa tuổi này tâm lý của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Việc tích hợp các môn học khác cô giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.

 

docx 9 trang daohong 10/10/2022 13500
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo

SKKN Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
 1. Lý do chọn đề tài:
Phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là một thứ sản phẩm độc quyền của con người, là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được lẫn nhau, cùng nhau hành động vì những mục đích chung: lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển xã hội. Không có ngôn ngữ, không thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được, nhất là đứa trẻ, một sinh thể yếu ớt rất cần đến sự chăm sóc, bảo vệ của người lớn. Ngôn ngữ làm cho đứa trẻ trở thành một thành viên của xã hội loài người. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ.
Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự  phát triển về đạo đức, tư duy  nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Ngôn ngữ được tích hợp trong tất cả các loại hình hoạt động giáo dục, ở mọi lúc, mọi nơi. Như vậy  ngôn ngữ cần cho tất cả các hoạt động và ngược lại, mọi hoạt động tạo cơ hội cho ngôn ngữ trẻ phát triển. Thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với sự vật, hiện tượng và những đặc điểm, tính chất, công dụng của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội. Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 3 – 4 tuổi nói riêng, trẻ rất nhậy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất. Thông qua việc trẻ kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, trí tưởng tượng, sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết trình bầy ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của trẻ. Từ những lí do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo” nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ mầm non hiện nay.
PHẦN II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận      
     Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học của trẻ rất phong phú, đa dạng với nhiều hoạt động học khác nhau và được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau một cách linh hoạt để giúp trẻ lĩnh hội tri thức, phát triển kỹ năng của hoạt động học theo nội dung của chủ đề. Trong đó hoạt động  làm quen văn học chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Làm quen văn học nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ, phát triển trí tưởng tượng, phát triển nhân cách, phát triển thẩm mỹ, phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ. Trẻ được tiếp xúc với tác phẩm văn học từ rất sớm: Từ khi lọt lòng mẹ trẻ đã được nghe những câu ru thấm đợm tình người. Lớn hơn một chút trẻ được sống trong thế giới kỳ diệu của những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích. Thông qua hoạt động cho trẻ làm quen văn học, giúp trẻ có được vốn hiểu biết, vốn từ nhất định và tạo cho trẻ tâm thế vững vàng khi bước vào lớp một.
 Trẻ 3 – 4 tuổi sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn của việc tích cực hóa vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có ý trật tự hơn, mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển. Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học. Mỗi bài thơ, câu chuyện đều giới thiệu với các em về một góc, một mặt của đời sống: có khi là quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, có khi là sinh hoạt trong gia đình, hoạt động của bác nông dân, chú bộ đội, chú công nhân, sinh hoạt ở trường mẫu giáoTiếp xúc với tác phẩm, trẻ không chỉ được thỏa mãn nhu cầu nhận thức mà còn được mở rộng tầm nhìn, làm giàu có lượng thông tin tri thức, làm sâu sắc hơn quá trình quan sát xã hội, môi trường xung quanh. Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn học dần dần đã giúp trẻ nắm được rất nhiều điều thú vị, bổ ích, có được lượng tri thức và kinh nghiệm sống đáng kể, cùng với nó là năng lực trí tuệ nhất định để trẻ có thể bước vào trường phổ thông. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một trong những hoạt động ở trường mầm non được trẻ rất yêu thích. Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là loại hình nghệ thuật, đặc biệt nó rất gần gũi với trẻ thơ, trẻ đã được sống chan hòa trong lời ru “ ầu ơ” đầy yêu thương của bà, của mẹ. Thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội có những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cô và trẻ giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ giữa hoàn cảnh, trạng thái tình huống và nhân vật, giữa lời kể và lời thuật, ngôn ngữ nhân vật, âm sắc, giọng điệu của tác phẩm chuyện và hành động của các nhân vật trong chuyện. Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên các mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học. Yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ năng tổng hợp, kỹ năng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói biểu cảm. Những kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quả trình nhận thức có hệ thống bằng con đường luyện tập thường xuyên hàng ngày. 
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Thực trạng vấn đề
a. Thuận lợi:
- Ban Giám Hiệu nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ về mọi mặt, UBND Phường luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất cũng như đồ dùng học tập cho trẻ.
- Lớp học rộng rãi, thoáng mát.
- Ban giám hiệu luôn quan tâm, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt lên chuyên đề văn học, hội thi đồ dùng đồ chơi cho chị em đồng nghiệp học tập nâng cao năng lực và rút kinh nghiệm.
- Giáo viên trẻ, năng động, sáng tạo, luôn tâm huyết với nghề, có ý thức tự bồi dưỡng nâng cao trình độ của mình.
- Được sự tín nhiệm và tin cậy của các bậc phụ huynh.
b. Khó khăn:
- Về cơ sở vật chất: Đồ dùng trực quan còn ít chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa cao.  
- Trẻ chưa mạnh dạn, chưa tích cực tham gia hoạt động, dễ bị cuốn hút nhưng cũng rất nhanh chán.
- Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ phát âm còn chưa rõ ràng, chưa diễn tả được ý của mình cho người khác.
- Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo giáo viên chưa tích hợp được nhiều môn học khác và đầu tư sưu tầm các câu chuyện ngoài chương trình.
3. Các biện pháp giải quyết
3.1. Biện pháp 1: Xây dựng nề nếp, thói quen cho trẻ.
 	 Từ đầu năm học việc xây dựng nề nếp, thói quen cho trẻ là việc quan trọng đầu tiên. Một số trẻ ở lớp rất hiếu động, hay nói chuyện riêng trong giờ học nên tôi xếp những cháu nghịch ngồi cạnh những cháu ngoan, luyện cho trẻ thói quen ngồi ngoan, chú ý, hứng thú trong giờ học. Trong giờ hoạt động tôi luôn nhắc trẻ ngồi đúng tư thế, biết lắng nghe cô nói từ đó trẻ tập trung vào hoạt động hơn.
VD : Trong lớp ngoài những trẻ ngoan, biết nghe lời cô thì còn một số bạn nghịch, hay nói chuyện trong giờ học tôi thường gọi những trẻ đó nên phát biểu, nếu trẻ chưa trả lời được tôi động viên khuyến khích trẻ, dù trẻ trả lời chưa đúng thì tôi vẫn động viên, khuyến khích tuyên dương trước lớp. Trẻ thấy thích thú khi được khen và sẽ ngoan hơn, chú ý, tập trung hơn trong giờ học.
3.2. Biện pháp 2: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
     Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết cho chương trình đổi mới. Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn. Tôi đã đi sâu vào môi trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện tranh chữ to tôi còn đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động như: một số con rối dẹt có bánh xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dán bồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh chuyện sáng tạo hoặc cắt rời các con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo.
3.3. Biện pháp 3: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
    Bên cạnh  một môi trường hoạt động với đầy đủ các đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo. Khi dạy trẻ sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập chuyện tranh sưu tầm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhận xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện, cho trẻ xem qua đĩa hình các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức. Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng cố và khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ.
     Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan:
- Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động.
- Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật trong tranh.
- Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.
- Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những  nhân vật mà trẻ thích kết hợp di chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo nhân vật sử dụng. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo đồ dùng trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dùng trực quan ở các chủ đề khác. Thông qua các câu chuyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng các ngữ điệu ngắt, nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình đối với tác phẩm. Trẻ bắt trước giọng kể diễn cảm của cô. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ, vốn từ được làm giàu thêm và qua đó trẻ cảm nhận được sự phong phú của ngôn ngữ.
3.4. Biện pháp 4: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
 Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích hợpcác môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn. Âm nhạc là môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “Thương con mèo”, “ Một con vịt”, “ Đố biết con gì”, “ Trời nắng trời mưa” giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp bới nội dung câu chuyện. Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở trạng động như trò chơi: Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng trời mưa, cáo và thỏ
 Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở lúa tuổi này tâm lý của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Việc tích hợp các môn học khác cô giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.
3.5. Biện pháp 5 : Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
 Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc tạo nguồn nhiên liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ của trẻ, đặc biệt là thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội dung chủ điểm, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình.
   Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện sáng tạo trẻ đã kể, yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng.
   Huy động phụ huynh đóng góp tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhặt những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo họa mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, mút xốpkết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh. Có thể nói công tác tuyên truyền  với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
* Về bản thân:
- Tôi đã thấy mình nâng cao được phong cách nghệ thuật lên lớp, giọng kể được trau rồi diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học.
- Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dậy trẻ kể chuyện sáng tạo, sưu tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chương trình.
- Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt ở các góc văn học.
- Tôi đã tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều lại rối phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc dậy trẻ kể chuyện sáng tạo.
 * Về trẻ:
- Phát âm rõ ràng mạch lạc
- Hứng thú tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo
- Biết thể hiện ngôn ngữ hoàn chỉnh ( kể chuyện sáng tạo)
 	* Về phụ huynh:
- Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể cuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Phụ huynh phối hợp cùng cô và nhà trường trong việc tạo môi trường học tập cho trẻ.
PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận :
 Giáo dục trẻ ở độ tuổi mầm non là một việc làm khó, giáo dục trẻ có chất lượng lại càng khó hơn. Là một giáo viên mầm non, tôi hết sức tâm huyết với công việc của mình và cố gắng tìm tòi những giải pháp hữu hiệu để cùng với chị em đồng nghiệp thực hiện tốt chuyên đề. Có thể những giải pháp trên chưa phải là giải pháp có hiệu quả tuyệt đối nhưng đối với bản thân tôi nó đã mang lại kết quả tương đối tốt, nó làm thay đổi chất lượng hoạt động làm quen văn học trong nhà trường. Chất lượng đội ngũ được nâng cao, phụ huynh quan tâm tới việc kết hợp giáo dục con trẻ. Trẻ hứng thú, hoạt bát, nhanh nhẹn, giao tiếp mạnh dạn hơn, sử dụng vốn từ có biểu cảm, tinh tế hơn...
2.Bài học kinh nghiệm: 
Từ những biện pháp đã thực hiện tôi đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân như sau:
- Trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi trong trường mầm non, thông qua các hoạt động dậy trẻ kể chuyện sáng tạo, là một việc làm thiết thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, nó đóng vai trò rất quan trọng và cần thiết. Hình thành vốn hiểu biết, tính tư duy hoàn thiện ngôn ngữ, cung cấp vốn từ cho trẻ phát huy tính tích cực. 
- Giáo viên cần: Xây dựng môi trường phát triển  ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non ở mọi lúc mọi nơi và phải lựa chọn các bài câu chuyện phù hợp với nội dung chương trình và lứa tuổi trẻ. Tăng cường đổi  mới hình thức tổ chức,  phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, độc lập tự chủ của trẻ hình thành ở trẻ phẩm chất tự tin, khi tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo.
- Giáo viên  phải có sự sáng tạo linh hoạt khi dậy trẻ,phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ. Cô luôn phải tâm huyết với nghề từ đó say sưa nghiên cứu tìm tòi sáng tạo các biện pháp hay áp dụng vào hoạt động sao cho phù hợp với lứa tuổi mà đảm bảo về yêu cầu về nội dung văn học, Học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn về hoạt động phát triển ngôn ngữ  có kiến thức tổ chức hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo đạt hiệu quả. Có như vậy mới phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của trẻ, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
3. Kiến nghị
- Kính mong phòng giáo dục và đào tạo , nhà trường tổ chức nhiều hơn nữa những buổi chuyên đề về làm quen tác phẩm văn học để giáo viên được tham gia, kiến tập học hỏi bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ và rút kinh nghiệm cho bản thân.
 Trên đây là một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo của tôi. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp bổ sung góp ý cho chuyên đề của tôi được hoàn chỉnh nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục trẻ trong nhà trường.
Tôi Xin chân thành cảm ơn!

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_kinh_nghiem_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_3_4_tuoi.docx