Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân

3.2.Biện pháp 2: Nắm vững kiến thức trọng tâm về kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt động vệ sinh cá nhân hàng ngày.

a. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.

- Thói quen vệ sinh cần rèn luyện.

- Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp, giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau:

- Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng.

- Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không khạt nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch.

- Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.

- Biết gấp cất trải nệm, gối.

- Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.

- Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.

- Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh.

- Các kỹ năng cần rèn cho trẻ.

- Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân.

- Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.

 - Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi

b. Giáo viên cần nắm được các trình tự sau đây để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

- Cô giáo hướng dẫn cho trẻ được nội dung yêu cầu thực hiện các thao tác vệ sinh cá nhân.

Ví dụ: Để trẻ thực hiện được các thao tác rửa tay, cô giáo cần làm mẫu từng bước rửa tay cho trẻ quan sát và thực hiện theo.

- Các cháu mẫu giáo nhỡ tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dể hiểu.

Ví dụ: Cô giáo cần giúp trẻ hiểu vì sao mỗi khi học tập xong, sau khi đi đại tiện trẻ cần phải rửa tay sạch sẽ? Ngoài phương pháp dùng lời, cô có thể kèm với lời giải thích bằng tranh, phim ảnh.

- Chuẩn bị lời hướng dẫn và động tác mẫu. Các cháu có thể làm tốt các công việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích.

Cô có thể tập trước cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo.

Ví dụ: Thực hiện đúng lịch hoạt động vệ sinh hàng ngày của trẻ để hình thành nền nếp kỹ năng tự phục vụ vệ sinh cá nhân cho trẻ.

c) Giáo viên tổ chức một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động vệ sinh cá nhân trẻ:

- Vệ sinh môi trường nề nếp của lớp:

Các cháu ở tường mầm non thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ.

Ví dụ: Lớp học sạch đẹp cháu sẽ không vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.

Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt cho trẻ.

- Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh: Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.

Ví dụ: Trang trí, sắp xếp lớp học gọn gàng, ngăn nắp; rửa tay sau mỗi hoạt động dạy học; giữ vệ sinh môi trường trường lớp sạch đẹp.

 

doc 25 trang daohong 08/10/2022 11484
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân
a mình cho cô giáo.Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn yếu, còn rụt rè nhút nhát nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu được trẻ. Bên cạnh đó có những trẻ nghe những không hiểu được các yêu cầu của cô, thích tự làm theo ý mình nên sẽ gây khó khăn cho tôi trong việc rèn các trẻ đó.
-Đây là nội dung giáo dục còn khá mới mẻ trong chương trình giáo dục mầm non mới vì vậy có rất ít tài liệu để tham khảo và tìm hiểu.
-Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ.
- Lớp có 39 trẻ là quá đông, trong khi đó có một trẻ mới bắt đầu đi học nên chưa có nề nếp.
- Trẻ còn bị ảnh hưởng do cuộc sống hiện đại như: intrenet, tivi, các trò chơi điện tử.....nên trẻ không có hứng thú với các kỹ năng tự phục vụ.
- Trẻ đã số được bố mẹ nuông chiều, sống trong bao bọc nên có tính ỷ lại, ích kỷ.
2.3. Thực trạng về kỹ năng tự phục vụ của trẻ:
Đầu năm tôi đã khảo sát thực tế và khả năng trẻ tự phục như sau:
TT
Nội dung khảo sát
Đạt
Chưa đạt
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
1
Xếp hàng đúng cách
20
51,3
19
48,7
2
Tự lấy và cất ghế
22
56,4
17
43,6
3
Tự xúc cơm ăn
28
71,8
11
28,2
4
Tự lấy cốc và uống nước đúng cách
30
76,9
9
23,1
5
Tự rửa tay 
24
61.5
15
38,5
6
Tự xúc miệng nước muối sau khi ăn cơm
29
74,4
10
25,6
7
Tự lấy tay che miệng khi ho
31
79,5
8
20,5
8
Tự biết cách lau mặt
19
48,7
20
51,3
9
Tự biết lau miệng đúng cách
20
51,3
19
48,7
10
Tự biết mặc, cởi áo
25
64,1
14
35,9
11
Tự biết cách cất dép và đi dép
30
76,9
9
23,1
12
Tự biết cài khuy áo
15
38,5
24
61.5
13
Tự biết lấy và cất gối
25
64,1
14
35,9
14
Tự biết cách cầm kéo, cầm dao
12
30,8
27
69,2
15
Tự cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định
30
76,9
9
23,1
16
Tự biết cách gấp, mắc quần áo
12
30,8
27
69,2
17
Khả năng trẻ tự làm được không cần cô nhắc nhở
4
10,3
35
89,7
Bảng 1: Bảng khảo sát khả năng tự phục vụ của trẻ trong lớp
Thời gian đầu khi tôi mới nhận lớp , tôi thấy khả năng nhận thức của trẻ còn chưa có, khả năng tự phục vụ của trẻ còn rất hạn chế.Có nhiều trẻ nói có chưa rõ, chứ biết những kỹ năng tự phục vụ đơn giản như : Có những trẻ muốn uống nước nhưng không biết lấy nước uống, không biết cách cầm cốc lấy nước sao cho đỡ đổ, một số trẻ có như cầu đi vệ sinh nhưng không biết cởi quần và mặc quần nên thường hay đấi dầm luôn ra quần, ... Bên cạnh đó có những trẻ nghe chưa kịp hoặc không hiểu những hiệu lệnh của cô nên không thực hiện được. Tuy nhiên cơ một số trẻ lại có những kỹ năng tự phục vụ rất tốt nhưng thiếu tính chủ động nên trẻ luôn chờ đợi người lớn nhắc nhở mới thực hiện.
Có thể hiểu ở đây hai vấn đề: hành động và kỹ năng. Khi tôi dạy trẻ rằng: con hãy lau mặt cho sạch, trẻ thực hiện yêu cầu của cô, đó là hành động. Hầu hết các trẻ lứa tuổi mầm non đều biết các hành động đơn giản: nhặt rác, chào hỏi người lớn, xin lỗi và cám ơn... Nhưng để những hành động đó trở thành kỹ năng thì lại cần một quá trình giáo dục. Hành động của trẻ trở thành kỹ năng khi trẻ thấy tay bẩn trẻ đi rửa tay, mặt bẩn trẻ đi lau mặt, ăn cơm xong là đi chải răng chứ không cần ai nhắc nhở, vì khi đó trẻ làm vì ý thức: thấy tay bẩn, mặt bẩn thì đi rửa tay, rửa mặt, chải răng ngay sau khi ăn để răng sạch chứ không làm vì người khác sai bảo.
Như vậy, bên cạnh việc dạy trẻ các hành động vệ sinh cá nhân: rửa tay, lau mặt, chải đầu tóc, gấp quần áo hay nói chung là giữ gìn vệ sinh cá nhân... chúng ta cần dạy trẻ ý thức được những việc làm đó và trẻ thực hiện các hành động đó vì ý thức trẻ hiểu chứ không phải vì người lớn bắt trẻ phải làm, khi đó kỹ năng sống của trẻ được hình thành và theo trẻ đến suốt cuộc đời. Khi hiểu được bản chất của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ: "đưa hành động vào trong ý thức" thì việc dạy kỹ năng sống cho trẻ nên đơn giản và các bậc cha mẹ và thầy cô đều có thể thực hiện được mà không phải băn khoăn là làm sao để dạy trẻ kỹ năng sống.
Trong phạm vi đối tượng cần dạy là 3- 4 tuổi, dạy trẻ một số kỹ năng phục vụ , tôi đã đề ra một số biện pháp sau:
3.Biện pháp thực hiện:
3.1 . Biện pháp 1:Lập kế hoạch thực hiện rèn trẻ các kỹ năng trong 1 năm học:
Đối với trẻ 3- 4 tuổi thì nhận thức của trẻ là còn hạn chế. Vì vậy để trẻ dễ hiểu hơn và để dễ đánh giá kết quả của trẻ. Tôi đã định ra các kế hoạch và lồng ghép vào các hoạt động trong ngày theo từng tháng như sau:
TT
KỸ NĂNG
T8
T9
T10
T11
T12
T1
T2
T3
T4
T5
1
Cách xếp hàng
x
2
Cách lấy và cất ghế
x
x
3
Cách cất dép và đi dép giầy
x
4
Cách cất đồ dùng , đồ chơi đúng nơi quy định
x
5
Cách sử dụng bát, thìa,cốc đúng cách
x
6
Cách lấy nước và uống nước
x
7
Cách lấy và cất gối
x
8
Cách rửa tay
x
9
Cách xúc miệng nước muối
x
10
Cách sử lý khi ho
x
11
Cách lau mặt
x
12
Cách mặc và cởi quần áo
x
13
Cách gấp và mắc quần áo
x
14
Cài khuy áo
x
15
Cách cầm dao, kéo 
x
Ngoài việc thường xuyên nhắc nhở, dạy trẻ các kỹ năng. Tôi vạch ra kế hoạch đưa các kỹ năng vào các tháng để chú trọng hơn, để biết trong tháng này ngoài các kỹ năng trẻ đã biêt thì sẽ dậy trẻ kỹ năng gì mới. Hơn nữa làm nhưu vậy trẻ sẽ nhớ hơn là dậy trẻ liền một lúc nhiều kỹ năng , sau rồi trẻ không nhớ gì. Đưa các kỹ năng theo tháng cô giáo cũng dễ định hướng là tháng này cần dạy trẻ kỹ năng gì mà không bị bỏ quên, hay xót các kỹ năng.
3.2.Biện pháp 2: Nắm vững kiến thức trọng tâm về kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt động vệ sinh cá nhân hàng ngày.
a. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.
- Thói quen vệ sinh cần rèn luyện.
- Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp, giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau:
- Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng.
- Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không khạt nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch..
- Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.
- Biết gấp cất trải nệm, gối.
- Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.
- Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.
- Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh.
- Các kỹ năng cần rèn cho trẻ.
- Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân. 
- Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.
 - Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi
b. Giáo viên cần nắm được các trình tự sau đây để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
- Cô giáo hướng dẫn cho trẻ được nội dung yêu cầu thực hiện các thao tác vệ sinh cá nhân.
Ví dụ: Để trẻ thực hiện được các thao tác rửa tay, cô giáo cần làm mẫu từng bước rửa tay cho trẻ quan sát và thực hiện theo.
- Các cháu mẫu giáo nhỡ tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dể hiểu.
Ví dụ: Cô giáo cần giúp trẻ hiểu vì sao mỗi khi học tập xong, sau khi đi đại tiện trẻ cần phải rửa tay sạch sẽ? Ngoài phương pháp dùng lời, cô có thể kèm với lời giải thích bằng tranh, phim ảnh...
- Chuẩn bị lời hướng dẫn và động tác mẫu. Các cháu có thể làm tốt các công việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích. 
Cô có thể tập trước cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo.
Ví dụ: Thực hiện đúng lịch hoạt động vệ sinh hàng ngày của trẻ để hình thành nền nếp kỹ năng tự phục vụ vệ sinh cá nhân cho trẻ.
c) Giáo viên tổ chức một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động vệ sinh cá nhân trẻ:
- Vệ sinh môi trường nề nếp của lớp:
Các cháu ở tường mầm non thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. 
Ví dụ: Lớp học sạch đẹp cháu sẽ không vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.
Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt cho trẻ.
- Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh: Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.
Ví dụ: Trang trí, sắp xếp lớp học gọn gàng, ngăn nắp; rửa tay sau mỗi hoạt động dạy học; giữ vệ sinh môi trường trường lớp sạch đẹp...
3.3. Biện pháp 3:Dạy trẻ kỹ năng tự phục thông qua các hoạt động hàng ngày.
a. Muốn thực hiện được những quy định thì phải có phương tiện thực hiện.
- Tham mưu nhà trường, phụ huynh học sinh tạo điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những quy định về vệ sinh. 
Ví dụ: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (giỏ rác) thì lớp phải có giỏ rác cho các cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
- Trang bị, bổ sung đủ các trang thiết bị vệ sinh cá nhân trẻ ở lớp.
Ví dụ: Mỗi cháu 1 khăn mặt, 1 bàn chải răng, 1 cốc uống nước riêng có kí hiệu tên trẻ; Khăn thêu tên, bìa hồ sơ để lưu bài học theo chủ đề, đồ dùng học tập của cá nhân trẻ đều ghi tên kí hiệu riêng từng cháu.	
- Giữ sạch sẽ nhà vệ sinh của trẻ:
Nhà vệ sinh nếu không được giữ vệ sinh sạch sẽ là nơi dễ mang mầm bệnh, vì thế nhà vệ sinh dành cho trẻ cần được chú ý giữ gìn sạch sẽ, thông thoáng không để có mùi hôi. Thường xuyên chà rửa, lau chùi nhà vệ sinh bằng dung dịch nước vệ sinh, nước lau nhà vừa vệ sinh sạch sẽ vừa giúp phòng tránh được các mầm bệnh cho trẻ, giúp trẻ thoải mái khi sử dụng nhà vệ sinh.
Ví dụ: Chà sạch sẽ nhà vệ sinh mỗi ngày, giữ sạch sẽ các dụng cụ vệ sinh. 
Ngoài ra, còn dán các hình ảnh thực hiện các thao tác và hành động thực hiện vệ sinh dán trên vách lớp, trong nhà vệ sinh ngay chỗ đặt bồn rửa tay của trẻ hoặc nơi trẻ tiểu tiện với mục đích thường xuyên nhắc nhở trẻ có thói quen vệ sinh đồng thời thực hiện tốt các thao tác vệ sinh và các hành vi văn minh.
Tham mưu cùng nhà trường trang bị đầy đủ các dụng cụ vệ sinh cho trẻ: khăn lau tay, lau mặt, bàn chải đánh răng, ca múc nước, xà phòng chú ý sắp xếp ngăn nắp, vừa tầm tay trẻ giúp trẻ dễ lấy sử dụng.
	Ví dụ: Xà phòng để trong rổ nhỏ hoặc túi lưới treo cạnh bồn rửa tay; các loại khăn treo trên giá thấp ngang tầm với trẻ và thường xuyên giặt sạch, phơi khô dưới ánh nắng mặt trời; bàn chải đánh răng rửa sạch phơi nắng và cắm vào trong một giá để bàn chải
b. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày
* Giờ đón trẻ: tôi đón trẻ vào lớp nhắc trẻ phải chào ba, mẹ ; chào cô, tôi hướng dẫn trẻ xếp mũ nón bảo hiểm, cặp vào kệ, giúp trẻ chải lại đầu tóc, hướng dẫn trẻ xếp dép đúng chân ngay ngắn lên kệ dép.
* Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay, lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay.
 Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội.
Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung.
Hình ảnh giờ ăn cơm của trẻ
* Khi trẻ uống nước: dạy và nhắc trẻ uống nước từ từ, không làm đổ, không làm rơi cốc, không rót nước quá đầy, không thò tay vào thùng chứa nước thừa, không uống nước sống...
* Hoạt động vệ sinh: rửa tay – rửa mặt:
Rửa tay – rửa mặt: đúng cách, đúng kỹ năng vệ sinh tay – mặt cô hướng dẫn.
Hình ảnh trẻ xếp hàng chuẩn bị đi rửa tay
Hình ảnh trẻ thực hiện rửa tay
* Dạy trẻ biết tự mặc quần áo: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ - không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo – thường xuyên tắm rửa thay quần áo.
Ví dụ: Cho trẻ xem tranh ảnh các bạn nhỏ ăn mặc quần áo sạch sẽ khi đi học, khi đi đến những nơi công cộng hoặc dự lễ hội.
* Giờ đón và trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô giáo dục các cháu kỹ năng tự phục vụ của trẻ.
Ví dụ: Trao đổi với phụ huynh các thao tác rửa tay hoặc giờ giấc hoạt động của trẻ trong một ngày.
Nhắc nhở phụ huynh cho con tự cất đồ dùng cá nhân của mình vào đúng tủ, đúng nơi quy định, đúng ký hiệu. Bố mẹ cùng hướng dẫn con cất các đồ dùng đó ngay ngắn. Tuyệt đối bố mẹ không nên làm hộ con. Hơn nữa bố mẹ khi đưa con đi học cùng kiểm tra xem con đã cất đúng đồ dùng cá nhân của mình chưa cùng với các cô.
Trẻ thực hiện tự cất dép đúng nơi quy định
Ví dụ: Trẻ khi đi đến lớp sẽ tự cầm dép của mình và cất vào chỗ có ký hiệu để dép của mình, để ngay ngắn.
Hình ảnh trẻ tự cất ba lô của mình vảo tủ cá nhân\
* Giờ ngủ: Tôi cho trẻ làm giúp cô những việc vừa sức của mình và rèn cho trẻ có các thói quen tốt. Đó là cho trẻ xếp hàng đi lấy gối, xếp gối và cất gối đúng nơi quy định sau khi ngủ dậy
* Thực hiện đúng chế độ hoạt động vệ sinh của trẻ:
	Để hình thành thói quen và nền nếp thực hiện các kỹ năng cho trẻ, tôi luôn thực hiện đúng theo lịch hoạt động vệ sinh ở trường.
	Thực hiện chế độ sinh hoạt vệ sinh đều đặn, hợp lý: luôn luôn tổ chức cho trẻ thực hiện các thao tác vệ sinh đúng giờ, chú ý quan sát, theo dõi khi trẻ để kịp thời nhắc nhở trẻ làm theo quy định.Nhắc nhở trẻ, động viên trẻ kịp thời để trẻ tiếp thu và thực hiện tốt nhất. 
Ví dụ như: Khi dậy trẻ vào các hoạt động cần dùng đến ghế để ngồi tôi sẽ rèn trẻ cách be ghê đúng cách, bê bằng hai tay, lấy lần lượt từ trên xuống, không chen lấn nhau khi lấy.
Hình ảnh trẻ thực hiện bê ghê
Và khi cất ghế trẻ cũng phải bê ghê hai tay, xếp lần lượt, ngay ngắn, đúng nơi quy định, không xếp quá cao.
Hình ảnh trẻ cất ghế
3.4. Biện pháp 4:Lồng ghép một số bài thơ khi dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ:
Để trẻ dễ nhớ, dễ thực hiện thì khi dậy trẻ kỹ năng nào tôi sẽ dạy trẻ một bài thơ. Trẻ sẽ đọc thơ và làm theo.Như vậy trẻ sẽ sẽ rất hứng thứ vì trẻ vừa đọc thơ và vừa được diễn lại. Trẻ không có cảm giác bị ép buộc khi học. Và lại khi đọc thơ trẻ sẽ rất nhớ các bước hơn là mình nói bằng lý thuyết.
Ví dụ: Khi dạy trẻ kỹ năng xếp hàng tôi sẽ lồng ghép bài thơ “ Quy tắc xếp hàng” 
Quy tắc xếp hàng
Trong lúc xếp hàng
Bé đừng chen lấn
Đợi chờ kiên nhẫn
Có gì khó đâu
Đến trước, đứng trước
Đến sau , đứng sau
Nét đẹp văn hóa
- Hay khi dạy kỹ năng rửa tay có rất nhiều kỹ năng khó và các bước. Trẻ rất khó nhớ. Thậm chí khi thực hiện trẻ sẽ sợ và làm không đứng yêu cầu kỹ năng cần đặt ra. Vì vậy, để cho trẻ nhớ tôi sẽ vừ cho trẻ đọc bài thơ “ Rửa tay” và trẻ thực hiện.
Bài thơ: Rửa tay
Bé làm ướt tay nào
Bánh xà phòng nho nhỏ
Em xát lên bàn tay
Nước máy đầy trong vắt
Em rửa đôi bàn tay
Xoa lòng bàn tay nào
Rồi đến kẽ ngón tay
Đổi bên làm lại nào
Tiếp đến xoay cổ tay
Ôi bé thật là giỏi
Đổi bên xoay tiếp nha
Chụm đầu ngón tay lại
Rửa cho sạch nhé bé
Khăn mặt đây thơm phức
Bé hãy lau khô tay
Đôi bàn tay be bé
Nay rửa sạch, xinh xinh
Cùng giơ tay vỗ vỗ.
Và khi dậy kỹ năng lau mặt tôi cho trẻ đọc bài thơ “ Bé tập rửa mặt” 
 Bài thơ: Bé tập rửa mặt
Một tay chẳng làm được
Bé phải lau hai tay
Bắt đầu từ mắt này
Lau từ trong ra nhé
Nhích khăn lên các bé
Lau sống mũi xuống đi
Sau đó đến cái gì
Cái miệng xinh của bé
Cô cất giọng nhỏ nhẹ
Làm thế nào nữa đây?
Bé gấp đôi khăn ngay
Lau hai bên má đỏ
Gấp đôi một lần nữa
Lau cái cổ cái cằm
Mắt bé nhìn chăm chăm
Kìa cô khen bé giỏi.
- Tiếp khi dậy đến kỹ năng xử lý khi ho tôi cũng tự sáng tác bài thơ “Cô dạy bé” để cho trẻ dễ nhớ.
Bài thơ: cô dạy bé
Bé đến lớp
Cô dạy bé
Bé nhớ nhé
Nếu bị ho
Hay hắt hơi
Bé lấy ngay
Tay che miệng
Thế mới ngoan
Ai cũng yêu.
Nhờ có việc dậy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các bài thơ nên trẻ rất nhớ, và thực hiện khá tốt các kỹ năng được học.
3.5. Biện pháp 5:Tuyên truyền, phối hợp phụ huynh học sinh dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ :
Muốn trẻ hình thành được các kỹ năng tự phục vụ tốt thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu cầu biện pháp giáo dục kỹ năng phục vụ cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ.
Ví dụ: Cần duy trì thực hiện nề nếp cho trẻ lau miệng, xúc miệng nước muối sau bữa ăn ở trường cũng như ở nhà.
Để thu hút sự chú ý của phụ huynh đến góc tuyên truyền cần trang trí thật đẹp bảng thông tin tuyên truyền dành cho phụ huynh. Các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục của con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.
Ví dụ: Giáo viên có thể tuyên truyền về hình ảnh hướng dẫn các bước rửa tay, kết quả tình hình sức khỏe của trẻ... Phụ huynh có thể ghi chép một số bài hát, bài thơ, câu chuyện có nội dung dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ
Ngoài ra cần tiếp tục xây dựng thư viện cho bé tại lớp, tại nhà, khuyến khích các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe. Để duy trì bổ sung nhu cầu đọc sách của trẻ, cần thường xuyên vận động cha mẹ quan tâm tặng sách cho góc thư viện của lớp và trang bị phong phú cho góc sách ngay tại gia đình.
Ví dụ: Tạo điều kiện mời phụ huynh đến tham quan góc thư viện của bé, quan sát giờ đọc sách, xem tranh của bé. Qua đó, vận động phụ huynh tặng sách cho góc thư viện của lớp.
Quan trọng nhất là hàng ngày giáo viên cần kiểm tra kỹ năng trẻ về một số vấn đề đơn giản như: trước khi đi học các con đã rửa tay, chân, mặt mũi sạch sẽ chưa?. Và phải động viên kịp thời khi trẻ thực hiện đúng được một trong những vấn đề vệ sinh như đã rửa tay chân , rửa mặt sạch. 
Ví dụ: Đưa vào tiêu chuẩn nêu gương để giúp trẻ thực hiện tốt theo quy định.
Bên cạnh đó cần động viên, khuyến khích những trẻ chưa thực hiện tốt lần sau cố gắng thực hiện tốt như các bạn. 
Thường xuyên nhắc nhở trẻ bỏ rác đúng nơi quy định, treo áo, mũ, để dép vào đúng nơi quy định, quét dọn lớp khi lớp bẩn, biết kê bàn ghế lại cho gọn gàng khi bàn ghế để không ngay ngắn.
Trước khi ra về, cô nhắc trẻ về nhà tắm rửa sạch sẽ, rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.,.Cứ như thế, hàng ngày, hàng ngày cô động viên kịp thời trẻ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, để dép, mũ,đúng nơi quy định sẽ giúp cho trẻ dần dần hình thành được thói quen tốt .
4. Kết quả:
* Về phía giáo viên
Nắm được mục đích, hiểu rõ sự cần thiết phải dạy kỹ năng tự phục vụ
Nắm vững phương pháp dạy kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động cho trẻ.
Có nhiều hình thức phong phú dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ .
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
* Về phía trẻ:
100% trẻ thích đến trường
100% trẻ đều được cha mẹ tạo điều kiện và khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ bản thân, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hằng ngày trong cuộc sống của trẻ.
100% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
 80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp sau mỗi giai đoạn, cuối độ tuổi và kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt với các chỉ tiêu cụ thể đạt được như 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_3_4_tuoi_co.doc