Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học môn Ngữ Văn

. Các thành viên trong nhóm phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực:

 Trong hoạt động hợp tác nhóm, học sinh phải nhận thấy thành công cùng hưởng, thất bại cùng chịu. Vì vậy các thành viên của nhóm phải gắn kết với nhau theo cách: mỗi cá nhân cũng như toàn nhóm chỉ có thể thành công nếu cố gắng hết sức mình.

 Ví dụ: Giáo viên yêu cầu cả nhóm phải hoàn thành vẽ tranh theo cốt truyện (Bài: Thạch Sanh). Nhóm trưởng sẽ phân công mỗi bạn hoàn thiện một bức tranh theo một sự việc chính của truyện. Nếu một bạn nào trong nhóm không hoàn thành thì chắc chắn bức tranh của cả nhóm sẽ không hoàn thành.

 Vì vậy trong học hợp tác nhóm, học sinh có hai nhiệm vụ:

 - Thực hiện nhiệm vụ được giao.

 - Đảm bảo các thành viên trong nhóm mình cũng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bạn nào xong trước thì cùng hỗ trợ cho bạn mình để nhiệm vụ của nhóm được hoàn thành.

2. Tạo môi trường hợp tác "mặt đối mặt" trong nhóm để học sinh nói cho nhau nghe:

 Học hợp tác nhóm đòi hỏi sự trao đổi qua lại tích cực giữa các học sinh độc lập trong nhóm. Điều đó được thực hiện khi các thành viên nhóm nhìn thấy nhau trong trao đổi. Tương tác mặt đối mặt, có tác động tích cực đối với học sinh như:

 - Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao thiệp chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và đáp án giải quyết vấn đề, tăng cường các kĩ năng tỏ thái độ, biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức: lời nói, ánh mắt, cử chỉ, khích lệ mọi thành viên tham gia, phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau.

 - Tầm quan trọng của việc hoạt động nhóm: Là giúp học sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn khác để cùng học, khám phá và phát triển tư duy.

 - Các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được phát triển.

 - Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể tự diễn đạt bằng lời và chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau.

 - Thông qua hoạt động nhóm, GV có thể hỗ trợ các đối tượng HS theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp.

 - Học sinh được làm việc nhiều dần dần tự tin hơn.

 Điều quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để có hiệu quả, biến những lý thuyết trên thành các hoạt động cụ thể, mang tính thường xuyên. Đó chính là biết và thành thạo công việc.

Mỗi thành viên trong nhóm có trách nhiệm cùng mọi người trong nhóm đạt được mục đích đề ra, để làm điều đó một số yêu cầu cụ thể:

 + Phải xác định được mục đích chung của nhóm.

 + Xây dựng các bước cụ thể để đạt được mục đích.

 + Mỗi thành viên xác định được quyền hạn, vai trò lợi ích của nhóm và cá nhân và mối liên hệ giữa các yếu tố này.

 + Mỗi thành viên phải có kiến thức cơ bản và kỹ năng cần thiết.

 + Mỗi thành viên tự hào và thỏa mãn với thành tích đạt được của nhóm.

Các thành viên lắng nghe và khai thác các ý kiến đóng góp, đặc biệt các ý kiến khác lạ (mặt tích cực ý kiến này thường giúp nhóm dễ dàng vượt qua trở ngại).

 Các thành viên ý thức xây dựng nhóm làm việc ngày càng hiệu quả.

Vai trò và nhiệm vụ của mỗi thành viên được thay đổi phù hợp với các vấn đề phải giải quyết.

 Sự đóng góp của cá nhân (dù nhỏ) được các thành viên khác và nhóm công nhận.

 Các thành viên phải tôn trọng và giúp đỡ nhau tạo môi trường làm việc thân thiện và cởi mở.

3. Nâng cao trách nhiệm cá nhân:

 Nhóm hợp tác được tổ chức sao cho từng thành viên trong nhóm không thể trốn tránh công việc, hoặc trách nhiệm học tập. Mọi thành viên đều phải học, đóng góp phần mình vào công việc chung và thành công của nhóm. Mỗi thành viên thực hiện một vai trò nhất định. Các vai trò ấy được luân phiên thường xuyên trong các nội dung hoạt động khác nhau (nhóm trưởng, thư kí, báo cáo viên .). Mỗi thành viên đều hiểu rằng không thể dựa vào công việc của người khác.

4. Sử dụng kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội:

 Học sinh phải thể hiện được các kĩ năng làm việc trong nhóm nhỏ. Đó là các kĩ năng:

 - Kĩ năng hình thành nhóm như: tham gia ngay vào hoạt động nhóm, không rời khỏi nhóm.

 - Kĩ năng giao tiếp như: biết chờ đợi đến lượt, tóm tắt và xử lí thông điệp.

 - Kĩ năng xây dựng niềm tin như bày tỏ sự ủng hộ qua ánh mắt, nụ cười, yêu cầu giải thích, giúp đỡ và sẵn sàng giải thích giúp bạn.

 - Kĩ năng giải quyết mối bất đồng như: kìm chế bực tức, không làm xúc phạm khi phản đối.

5. Rút kinh nghiệm tương tác nhóm:

 Sau mỗi hoạt động hợp tác, học sinh phải đánh giá quá trình hoạt động của mỗi thành viên nhóm như những mặt tốt trong hoạt động chung và những đóng góp cá nhân nổi bật cần được phát huy, những mặt cần thay đổi, cải thiện để hoạt động của nhóm có hiệu quả hơn. Điều này, giúp học sinh học được kĩ năng hợp tác với người khác một cách có hiệu quả.

 Tóm lại, dạy học theo phương thức hợp tác nhóm là giáo viên tổ chức cho học sinh đối diện nhau trong nhóm học tập cùng trao đổi, chia sẻ, tìm tòi những kinh nghiệm, những kiến thức hay giải quyết nhiệm vụ học tập được giao. Trong khi đó, giáo viên bao quát, theo dõi hoạt động của học sinh và sẵn sàng làm cố vấn, trọng tài hay hỗ trợ các nhóm khi cần thiết

 Để thực hiện dạy học hợp tác nhóm trong bài học cụ thể, tôi đã tiến hành như sau:

1.1. Xác định các kĩ năng hợp tác và nội dung hoạt động nhóm:

 

doc 18 trang daohong 10/10/2022 12140
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học môn Ngữ Văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học môn Ngữ Văn

Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học môn Ngữ Văn
mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. 
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Tổ chức dạy học nhóm là một hình thức dạy học với nhiều tính ưu việt. Đó là một trong những hình thức thực hiện tốt việc dạy học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Với hình thức này, học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Dạy học theo nhóm đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch dạy học, lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm và thiết kế được các hoạt động giúp các em lĩnh hội, khám phá kiến thức mới một cách tốt nhất, phát huy tác dụng tích cực trong việc giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện được các kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Học sinh không tập trung trong việc học nhìn chung ở lớp nào, trường nào cũng có.. Nhìn thấy thực trạng khó khăn đó, tôi đã đi vào tìm hiểu phương pháp học tập theo nhóm để có biện pháp giáo dục đúng đắn. Nhằm mục đích giúp các em tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất.Vì xác định được mục đích đó, tôi đã đi tìm hiểu vấn đề này.
3. Phạm vi nghiên cứu:
 Nghiên cứu “Kỹ năng dạy học theo nhóm” và thử nghiệm các biện pháp đề xuất ở Trường THCS nói chung.
4. Thời gian nghiên cứu:
 Thời gian: Bắt đầu từ ngày 01/9/2015 đến ngày 20/3/2016
5. Phương pháp nghiên cứu:
 	- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
 - Phương pháp quan sát.
 - Phương pháp điều tra phỏng vấn.
 - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
B. PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SƠ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận:
Trong cuộc sống xã hội, sự hợp tác có tính phổ biến, mang bản chất sinh học tự nhiên và diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi con người. Sự hợp tác diễn ra trong mọi gia đình, cộng đồng, trong mọi công việc. Thậm chí ngay trong lúc nghỉ ngơi khi các thành viên cùng hoạt động để đạt mục đích chung. Sự hợp tác diễn ra trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, pháp luật, là nền tảng của các cuộc cách mạng và những tiến bộ xã hội. Các nghiên cứu cho thấy hợp tác quyết định sự thành bại của mỗi cá nhân trong xã hội. Do vậy, học hợp tác nhóm là hình thức tổ chức học tập của học sinh theo nhóm nhỏ trên lớp, trong đó nhấn mạnh đến các kĩ năng hợp tác mang tính xã hội. Dạy học theo nhóm được các tác giả nêu ra dưới những cách gọi khác nhau: là phương pháp dạy học, là hình thức tổ chức dạy học hoặc là phương tiện theo nghĩa rộng. Dù có những quan niệm rộng, hẹp khác nhau nhưng chung quy lại đều đưa ra những dấu hiện chung của dạy học theo nhóm là mối quan hệ giúp đỡ, gắn kết và hợp tác giữa các thành viên trong nhóm với nhau nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập chung của nhóm. Cuối cùng định nghĩa dạy học theo nhóm được hiểu như sau: Dạy học theo nhóm là phương pháp dạy học trong đó giáo viên sắp xếp học sinh thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên, theo đó học sinh trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và cùng nhau phối hợp làm việc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm.
2. Cơ sở thực tiễn:
Nhóm bao gồm một nhóm nhỏ những người cùng làm một công việc, gặp gỡ để cùng nhận dạng, phân tích và giải quyết các vấn đề được đặt ra. Nhóm không phải là một cơ chế, hay một tổ chức mang tính hình thức, một thứ mốt nhất thời, một chương trình, mà là một cách làm việc, một sự thay đổi thói quen bảo thủ trong suy nghĩ của con người. Nhóm làm thay đổi mối quan hệ giữa người với người trong công việc.
Nhóm giúp cải thiện sự giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên, mọi người trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập trở nên sôi động hơn. Mọi người dần giảm bớt chủ nghĩa cá nhân để hướng đến tập thể, để cùng giải quyết các vấn đề lớn mà một người hoặc một nhóm người làm việc độc lập, riêng rẽ không thể hoàn thành được. Bầu không khí làm việc của tổ chức thay đổi theo hướng tích cực, mọi người có thái độ thiện chí với nhau. Chính vì vậy mà vấn đề hóc búa thường được giải quyết dễ dàng hơn.
 - Xây dựng tinh thần đồng đội và hỗ trợ nhau cùng phát triển:
Sau quãng thời gian học tập, đặc biệt là những công việc lặp đi lặp lại, hoặc các vấn đề cần giải quyết quá phức tạp, áp lực công việc quá cao làm cho người thực hiện cảm thấy dễ chán nản, đơn điệu, buông xuôi. Khi đó, tham gia nhóm làm họ trở nên hưng phấn, họ chờ đón các hoạt động của nhóm và khi tham gia nhóm, họ bị thu hút vào công việc hơn bao giờ hết, vì trong nhóm có sự hỗ trợ của đồng đội, có điều kiện thể hiện cá nhân, được chia sẻ kinh nghiệm và hướng dẫn những thành viên khác và mọi việc trước đây được xem là nhàm chán thì giờ đây, dưới cái nhìn từ một góc độ khác từ nhóm, vấn đề trở nên mới và hấp dẫn hơn.
- Mở rộng hợp tác và liên hệ giữa tất cả các cấp: 
Khi tham gia nhóm, các thành viên có xu hướng mở rộng hợp tác với nhau để tạo sự thống nhất của tổ chức, giúp xóa bỏ ngăn cách trong các mối quan hệ. Nhóm là một trong những cách kết nối tất cả mọi người không phân biệt chức vụ, cấp bậc.
Khi mọi người cùng bắt tay cùng giải quyết các vấn đề đặt ra, lúc đó bức tường ngăn cách bị phá toang, mọi người hòa nhập lại, gần gũi nhau hơn, hỗ trợ nhau cùng tồn tại và phát triển.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
 Là một giáo viên bộ môn, bản thân tôi luôn nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của chi bộ Đảng, của Ban Giám hiệu, cùng sự giúp đỡ của tất cả các đồng nghiệp trong HĐSP nhà trường.
 Bản thân tôi thích học hỏi, tìm tòi sáng tạo và vận dụng những phương pháp mới trong giảng dạy.
 Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ đảm bảo tốt cho việc thực hiện công tác giáo dục.
 Qua dự giờ, thăm lớp đồng nghiệp, tôi nhận thấy những hạn chế trong dạy học theo nhóm ở một số lớp như sau:
- Sử dụng dạy học theo nhóm tuỳ tiện, không có sự lựa chọn thích hợp.
    - Trong hoạt động nhóm chỉ có một số em tham gia, số còn lại không tham gia hoặc tham gia không tích cực:  Hoạt động nhóm chỉ tập trung ở một số đối tượng khá giỏi còn một số học sinh khác thì lợi dụng hoạt động nhóm để chơi.
     - Các thành viên trong nhóm không lắng nghe ý kiến của nhau: có hiện tượng lấn át hoặc chấp nhận ý kiến của nhau một cách miễn cưỡng. Thường là những 
Em giỏi áp đặt ý kiến của mình cho toàn nhóm.
     - Cả nhóm phụ thuộc vào một, hai người, để mặc người đó điều khiển. Nhóm hoạt động tự do, không có ai điều khiển. Nhóm trưởng và thư kĩ hầu như được chỉ định, không thay đổi.
     - Giáo viên cho học sinh tiến hành thảo luận nhóm nhưng không quy định rõ thời gian thảo luận trong bao lâu vì vậy học sinh vẫn nhởn nhơ đùa khi đã nhận nhiệm vụ.
     - Việc áp dụng phương pháp thảo luận nhóm còn mang nặng tính hình thức, chiếu lệ. Nhiều giáo viên quan niệm và hiểu rằng muốn đổi mới phương pháp dạy học là bắt buộc phải sử dụng hình thức thảo luận nhóm... nên bất kỳ tiết dạy nào hoặc khi có giáo viên dự giờ, thăm lớp là sử dụng đến thảo luận nhóm mà chưa thực sự chú ý đến hiệu quả của nó.
    - Nội dung vấn đề thảo luận giáo viên đưa ra chưa phù hợp với khả năng, chưa kích thích được hứng thú của học sinh. Nếu vấn đề thảo luận nhóm quá dễ, quá thấp sẽ làm học sinh chủ quan, không làm việc. Ngược lại, vấn đề đưa ra quá khó, quá cao thì học sinh không thể tranh luận để giải quyết được. 
    - Về phía học sinh, vì thảo luận theo nhóm nên giờ học ở lớp trở nên lộn xộn, ồn ào. Nguyên nhân là do giáo viên chưa hướng dẫn học sinh kĩ năng hợp tác, biết lắng nghe ý kiến của bạn, không nên tranh nhau nói.
  - Để đổi mới phương pháp dạy và học theo xu hướng mới, Bộ Giáo dục đã chỉ đạo đưa những học sinh khuyết tật nhẹ học hoà nhập với học sinh bình thường thì hình thức học nhóm là rất cần thiết đối với em vì bản thân các em có những hạn chế về mặt nhận thức so với bạn bè cùng trang lứa nên các em phải cần sự hỗ trợ từ phía bạn thông qua hình thức học tập theo nhóm.
CHƯƠNG III. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC HÌNH THÀNH HỢP TÁC NHÓM TRONG MÔN NGỮ VĂN
 Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân trong việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao: các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi học theo nhóm, vai trò chủ thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thầntrách nhiệm của HS thường được phát huy hơn, cơ hội cho HS tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn.
 Đặc biệt, khi HS học theo nhóm thì kết quả học tập thường cao hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, khả năng ghi nhớ lâu hơn, động cơ bên trong, thời gian dành cho việc học, trình độ lập luận cao và tư duy phê phán. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trò tích cực đối với việc học của mình - hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của bạn, thể hiện sự khuyến khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích... rất nhiều những kĩ năng nhận thức được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi trường cùng phối hợp, giải thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương thức tác động qua lại, phát triển sự tự tin vào bản thân như là người học và trong việc chia sẻ ý tưởng với sự tiếp thu có phê phán (của nhiều người cùng nghe về một vấn đề). Hay nói cách khác, HS trở thành chủ thể đích thực của hoạt động học tập của cá nhân mình.
1. Các thành viên trong nhóm phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực:
       Trong hoạt động hợp tác nhóm, học sinh phải nhận thấy thành công cùng hưởng, thất bại cùng chịu. Vì vậy các thành viên của nhóm phải gắn kết với nhau theo cách: mỗi cá nhân cũng như toàn nhóm chỉ có thể thành công nếu cố gắng hết sức mình.
        Ví dụ: Giáo viên yêu cầu cả nhóm phải hoàn thành vẽ tranh theo cốt truyện (Bài: Thạch Sanh). Nhóm trưởng sẽ phân công mỗi bạn hoàn thiện một bức tranh theo một sự việc chính của truyện. Nếu một bạn nào trong nhóm không hoàn thành thì chắc chắn bức tranh của cả nhóm sẽ không hoàn thành.
     Vì vậy trong học hợp tác nhóm, học sinh có hai nhiệm vụ:
 - Thực hiện nhiệm vụ được giao.
   - Đảm bảo các thành viên trong nhóm mình cũng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bạn nào xong trước thì cùng hỗ trợ cho bạn mình để nhiệm vụ của nhóm được hoàn thành.
2. Tạo môi trường hợp tác "mặt đối mặt" trong nhóm để học sinh nói cho nhau nghe: 
 Học hợp tác nhóm đòi hỏi sự trao đổi qua lại tích cực giữa các học sinh độc lập trong nhóm. Điều đó được thực hiện khi các thành viên nhóm nhìn thấy nhau trong trao đổi. Tương tác mặt đối mặt, có tác động tích cực đối với học sinh như:
 - Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao thiệp chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và đáp án giải quyết vấn đề, tăng cường các kĩ năng tỏ thái độ, biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức: lời nói, ánh mắt, cử chỉ, khích lệ mọi thành viên tham gia, phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau.
 - Tầm quan trọng của việc hoạt động nhóm: Là giúp học sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn khác để cùng học, khám phá và phát triển tư duy.
 - Các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được phát triển.
 - Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể tự diễn đạt bằng lời và chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau.
 - Thông qua hoạt động nhóm, GV có thể hỗ trợ các đối tượng HS theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp.
 - Học sinh được làm việc nhiều dần dần tự tin hơn.
 Điều quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để có hiệu quả, biến những lý thuyết trên thành các hoạt động cụ thể, mang tính thường xuyên. Đó chính là biết và thành thạo công việc.
Mỗi thành viên trong nhóm có trách nhiệm cùng mọi người trong nhóm đạt được mục đích đề ra, để làm điều đó một số yêu cầu cụ thể:
 + Phải xác định được mục đích chung của nhóm.
 + Xây dựng các bước cụ thể để đạt được mục đích.
 + Mỗi thành viên xác định được quyền hạn, vai trò lợi ích của nhóm và cá nhân và mối liên hệ giữa các yếu tố này.
 + Mỗi thành viên phải có kiến thức cơ bản và kỹ năng cần thiết.
 + Mỗi thành viên tự hào và thỏa mãn với thành tích đạt được của nhóm.
Các thành viên lắng nghe và khai thác các ý kiến đóng góp, đặc biệt các ý kiến khác lạ (mặt tích cực ý kiến này thường giúp nhóm dễ dàng vượt qua trở ngại).
 Các thành viên ý thức xây dựng nhóm làm việc ngày càng hiệu quả.
Vai trò và nhiệm vụ của mỗi thành viên được thay đổi phù hợp với các vấn đề phải giải quyết.
 Sự đóng góp của cá nhân (dù nhỏ) được các thành viên khác và nhóm công nhận.
 Các thành viên phải tôn trọng và giúp đỡ nhau tạo môi trường làm việc thân thiện và cởi mở.
3. Nâng cao trách nhiệm cá nhân: 
 Nhóm hợp tác được tổ chức sao cho từng thành viên trong nhóm không thể trốn tránh công việc, hoặc trách nhiệm học tập. Mọi thành viên đều phải học, đóng góp phần mình vào công việc chung và thành công của nhóm. Mỗi thành viên thực hiện một vai trò nhất định. Các vai trò ấy được luân phiên thường xuyên trong các nội dung hoạt động khác nhau (nhóm trưởng, thư kí, báo cáo viên ...). Mỗi thành viên đều hiểu rằng không thể dựa vào công việc của người khác.
4. Sử dụng kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội: 
 Học sinh phải thể hiện được các kĩ năng làm việc trong nhóm nhỏ. Đó là các kĩ năng:
 - Kĩ năng hình thành nhóm như: tham gia ngay vào hoạt động nhóm, không rời khỏi nhóm.
 - Kĩ năng giao tiếp như: biết chờ đợi đến lượt, tóm tắt và xử lí thông điệp.  
 - Kĩ năng xây dựng niềm tin như bày tỏ sự ủng hộ qua ánh mắt, nụ cười, yêu cầu giải thích, giúp đỡ và sẵn sàng giải thích giúp bạn.
 - Kĩ năng giải quyết mối bất đồng như: kìm chế bực tức, không làm xúc phạm khi phản đối.
5. Rút kinh nghiệm tương tác nhóm:
 Sau mỗi hoạt động hợp tác, học sinh phải đánh giá quá trình hoạt động của mỗi thành viên nhóm như những mặt tốt trong hoạt động chung và những đóng góp cá nhân nổi bật cần được phát huy, những mặt cần thay đổi, cải thiện để hoạt động của nhóm có hiệu quả hơn. Điều này, giúp học sinh học được kĩ năng hợp tác với người khác một cách có hiệu quả.
 Tóm lại, dạy học theo phương thức hợp tác nhóm là giáo viên tổ chức cho học sinh đối diện nhau trong nhóm học tập cùng trao đổi, chia sẻ, tìm tòi những kinh nghiệm, những kiến thức hay giải quyết nhiệm vụ học tập được giao. Trong khi đó, giáo viên bao quát, theo dõi hoạt động của học sinh và sẵn sàng làm cố vấn, trọng tài hay hỗ trợ các nhóm khi cần thiết
 Để thực hiện dạy học hợp tác nhóm trong bài học cụ thể, tôi đã tiến hành như sau:
Xác định các kĩ năng hợp tác và nội dung hoạt động nhóm:
 Có hai loại mục tiêu tôi cần xác định rõ trước khi dạy một bài. 
 + Một là, mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ được xác định ở mức độ phù hợp với học sinh và phù hợp với yêu cầu chung của bài học. 
 + Hai là, mục tiêu về kĩ năng hợp tác của học sinh với nhau: được thể hiện bằng các kĩ năng hợp tác cụ thể, yêu cầu học sinh qua bài học. Căn cứ vào khả năng hợp tác nhóm của học sinh tôi xác định các kĩ năng cần rèn cho các em.
 Trong một bài học, tuỳ theo nội dung môn học, tôi xác định nội dung vấn đề cho hoạt động hợp tác nhóm. Vấn đề tôi đưa ra cho học sinh hoạt động học hợp tác nhóm luôn đảm bảo: Nội dung vấn đề phải có độ khó, phức tạp nhất định sao cho nhóm học sinh phải cùng hợp tác với nhau mới có thể giải quyết được. Nội dung vấn đề cho hoạt động nhóm, chỉ có thể giải quyết được khi các thành viên nhóm phải vận dụng những kinh nghiệm của bản thân. Nội dung vấn đề trong hoạt động nhóm cho học sinh giải quyết tôi đều dành thời gian hợp lí để học sinh thảo luận.
 Các vấn đề đưa ra cho học hợp tác nhóm được tôi biên soạn trong phiếu học tập hoặc viết bảng phụ. Các phiếu được biên soạn đơn giản, rõ mục đích, có tính trực quan cao, không rườm rà, gây khó hiểu, mất thời gian
5.2. Trình tự làm việc theo nhóm.
 *Nhóm trưởng
- Chọn trưởng nhóm:
Có nên nhất thiết là bàn trưởng (đôi khi là tổ trưởng), nói hay nhất, biết tất cả vấn đề thảo luận, có quyền lực cao nhất.
Phải có các tố chất:
Am hiểu các vấn đề trong những nét cơ bản và khái quát
Biết tâm lý nhóm và điều động nhóm có khoa học
Xác nhận được tiềm năng của nhóm, khơi dậy được tiềm năng đó
Dân chủ
- Các công việc của nhóm trưởng
 Chuẩn bị:
Nội dung ( xác định mục tiêu, chuẩn bị dữ kiện, tư liệu, đặt vấn đề với một số cá nhân tích cực để họ là hạt nhân trong buổi họp).
Sắp xếp chỗ ngồi: Nguyên tắc tất cả nhìn thấy và nghe được nhau
Mở đầu buổi thảo luận nếu chưa quen thì giới thiệu tất cả các thành viên (nên tự giới thiệu)
Cùng nhóm viên xác định mục tiêu, chương trình nghị sự, thời gian dành cho từng phần và toàn bộ cuộc thảo luận, cách thức diễn đạt, hành vi cư xử của các thành viên trong nhóm. Dành thời gian ngắn (5 -7 phút) nhóm trưởng đưa ra vấn đề (đơn giản ) tạo sự chú ý của thành viên trong nhóm: vấn đề có thể dưới dạng một tình huống, tốt nhất nên thời sự và liên quan đến chủ đề phải thảo luận, tạo điều kiện để các thành viên cùng tham gia ý kiến.
Thái độ ân cần, quan tâm từng thành viên
Trong quá trình thảo luận: Điều động sự tham gia tích cực và đồng đều. Thái độ lắng nghe, khách quan. Khuyến khích người rụt rè. Khéo léo chặn bớt người nói nhiều, khuynh hướng lấn át người khác. Quan sát sự tham gia của các thành viên (lặng thinh do đồng tình hay dửng dưng hay lờ đi, hay chống đối, cười hứng thú hay châm biếm, thụ động).
 Biết khai thác nội dung, ví dụ:
 Khi dạy bài “ Tức nước vì bê ” - Ngữ văn 8: GV có thể cho học sinh tranh luận về sự thay đổi thái độ của chị Dậu. Cuộc tranh luận có thể bắt đầu từ những từ then chốt có liên quan đến quá trình diễn biến tâm lý của chị Dậu trong đoạn trích và có thể gây tranh luậ n về cách nhìn nhận hành động của chị Dậu khi đánh lại cai lệ và người nhà lý trưởng: (GV viết các từ ngữ đó thành cột vào bảng phụ). GV dành cho học sinh thị 3 đến 5 phút để học sinh suy nghĩ lựa chọn ý kiến, chuẩn bị lý lẽ cho quyết định lựa chọn của mình: ? Em có nhận xét gì về thái độ của chị Dậu khi tên cai lệ xuất hiện trong nhà chị để đòi tiền nộp sưu? (Thay đổi: Từ chỗ van xin đến liều mạng cự lại lúc đầu là bằng lý lẽ sau đó là bằng vũ lực)? Sự thay đổi thái độ của chị Dậu trước hành động của tên cai lệ và người nhà lý trưởng chứng tỏ điều gì ở người phụ nữ nông thôn ấy? Giáo viên nêu vấn đề :
+ Đây là người đàn bà đanh đá, ghê gớm? 
+ Đây là người phụ nữ nông dân thuần hậu, cam tâm chịu đựng song khi bị đẩy tới bước đường cùng tự phát vùng dậy đấu tranh? 
+ Chống lại tên cai lệ và người nhà lý trưởng là thể hiện tình yêu thương chồng, kiên quyết bảo vệ chồng khi bị đau ốm, không cho kẻ khác hành hạ?
 - Giáo viên giám sát tranh luận của HS, chuẩn bị một vài câu hỏi cho từng nhó m theo nh÷ng ý các em nêu ra để tất cả học sinh đều có thể tham gia tranh luận. Từ đó giúp các em chốt lại vấn đề: Sự thay đổi thái độ của chị Dậu liên quan mật thiết tới quá trình diễ n biến tâm lý của chị. Từ đó toát lên vẻ đẹp tiềm ẩn của người phụ nữ nông dân giàu đức hy sinh. Hành động của chị tuy là bột phát song khẳng định chân lý: “ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”. Chị hiện lên như một ánh sáng chói loà trong màn đêm của “Tắt đèn” Bài tập nhóm rất đa dạng có thể là viết một bài báo về một sự kiện trong câu chuyện, một lời thoại và một đoạn trích trong bài học. 
 Ví dụ: GV có thể tổ chức bài tập nhóm để học sinh có ý kiến với truyện ngắn “Lão Hạc” (Ngữ văn 8 tập 1) *Vấn đề thảo luận: Cái chết của Lão Hạc gợi cho em suy nghĩ gì về xã hội thực dân nửa phong kiến thời bấy giờ ? Giáo viên: + Chia lớp thành 4 nhóm (theo đơn vị tổ). Mỗi nhóm có một nhó m trưởng, một thư ký. + Định hướng cho các nhóm thảo luận theo hướng sau: ? Nếu không tự tử lão Hạc sẽ sống kiếp như thế nào ? (Tổ 1) ? Cái chết của lão Hạc có phù hợp với diễn biến tâm lý, tính cách của lão Hạc hay không ? (Tổ 2) ? Tại sao Nam Cao không giải quyết cái chết của lão Hạc bằng cách khác ? (Tổ 3) ? Thông qua cái chết của lão Hạc tác giả muốn nói điều gì? (Tổ 4) - Thời gian để các nhóm thảo luận 2 phút - Các tổ cử đại diện, trình bày ý kiến của mình
- Các thành viên của nhóm khác đặt câu hỏi những chỗ mình chưa hiểu để đại diện của nhóm kia trả lời (nếu không trả lời được các thành viên trong nhóm khác có thể bổ xung). - GV nhận xét rút ra kết luận về cái chết của lão Hạc. Với lão Hạc, tác giả đặt nhân cách con người bên bờ vực của hoàn cảnh k

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_to_chuc_hinh_thuc_hop_tac.doc