Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ

Việc giáo dục nhân cách cho học sinh, đặc biệt là công tác giáo dục học sinh chưa ngoan, là việc làm không thể thành công trong một sớm một chiều, bởi giáo dục là cả một quá trình. Quá trình này phải thực hiện xuyên suốt từ các cấp học: Bậc mầm non là giáo dục lễ giáo, bậc tiểu học là môn đạo đức, bậc trung học là môn giáo dục công dân. Thế nhưng vấn đề đạo đức học sinh hiện nay đang là sự lo lắng, bức xúc của toàn xã hội.

Nhìn lại và so sánh tình hình chung về đạo đức của học sinh những năm 90 cùng với thực tế những năm công tác, tôi nghiên cứu đề tài này nhằm hạn chế số lượng học sinh chưa ngoan của lớp chủ nhiệm. Qua đó góp phần kéo giảm tỷ lệ học sinh vi phạm đạo đức ở nhà trường đến ngoài xã hội. Đồng thời cũng qua nghiên cứu này nhằm nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân và cũng để chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp.

 

doc 39 trang Chí Tường 21/08/2023 1760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
với bao động tác khó thế tôi cũng chia sẻ : “ Cô thấy khó quá con ạ! Làm sao mà nhớ các động tác, lại đúng nhạc nữa...” Các em còn an ủi tôi : “ Cô yên tâm, bọn em làm được”. Và quả thực, trong mỗi buổi tập các em say mê giúp đỡ các bạn còn cứng trong động tác, hướng dẫn tỉ mỉ lắm, chúng còn dạy cả tôi, làm tôi cuốn vào trò đó. Mà lúc đó và sau này những lời xuýt xoa “ Sao Thanh nhảy đẹp thế, dẻo thế...” làm cho em sung sướng. Từ đó tình đoàn kết ngày càng lên. Mỗi người vui vẻ giúp đỡ nhau những điểm yếu của mình trong cả hoạt động và học tập.
- Giáo dục bằng tâm lý:
GVCN cần tạo đựơc mối quan hệ gần gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của các em. Khi giao tiếp với các em GVCN phải luôn cởi mở, chân tình, vui vẻ dễ cảm hóa được các em.Khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ những tâm tư tình cảm với GVCN mà không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo của GVCN sẽ có tác dụng lớn đối với các em.Nhiều lúc phải biết khích lệ các em hoặc lấy ví dụ từ chính bản thân để làm độ tin cậy với các em.
Đây là quá trình cần lâu dài để tạo ra độ tin tưởng ở các em. Hãy luôn đóng vai trò là bạn của em.
Ví dụ như em Nam học sinh lớp 6D của tôi từ năm đầu tiên tôi chuyển công tác về trường. Em là một HS yếu, viết chữ hay mất nét, thích chơi điện tử, hay chạy ra khỏi chỗ đặc biệt là rất hay đánh bạn với phương châm “ Lấy thịt đè người” (vì Nam tuy mới lớp 6 nhưng to cao vạm vỡ như thanh niên, có khi gấp đôi các bạn khác trong lớp). Trong mấy tuần đầu khi nhận lớp tôi đã thấy sự ngỗ nghịch của em nên càng để ý the dõi và kiểm tra nhiều hơn. Nhưng em chỉ ngồi yên trong tiết của tôi. Còn lại nhất là tiết toán do cô giáo còn trẻ, lại hiền nên em thường xuyên lấy lí do ra mượn bạn thước kẻ, bút chì hoặc com-pa...để ra khỏi chỗ trong giờ, ra cấu đứa này cái, vụt hay búng tai đứa khác cái, đứa nào mà tỏ thái độ không thích là bị dọa “ra chơi mày biết tay”; mà không bao giờ cần cô đồng ý hay không “mồm hỏi chân đã đi ra”! Nên trong giờ toán thật là vất vả cho cô và ngay cả trò khác cũng chán. Thế là trong tuần tiếp theo tôi làm biện pháp mạnh : dọa mời bố mẹ, đình chỉ nếu còn tiếp diễn, khi nào có tiết toán mà tôi trong giờ là tôi trở thành “thám tử” hoặc “giám khảo” dự giờ đột xuất của GV toán! Nhưng em cũng nắm được lịch của tôi, nên cũng ngồi yên trong tiết biết tôi có thể đi qua còn lại chưa có chuyển biến gì. Tôi phải gọi điện mời PH nhưng không ai nghe máy, đến tận nhà cũng chẳng có ai để nhắn đến gặp.
Chưa biết giải quyết thế nào, bất chợt gặp Nam đang hí húi dưới bếp bắc nồi cơm lên bếp than tổ ong. Tôi chợt thấy em nhìn đáng thương làm sao, nhìn cậu bé mới thật hiền lành. Để cho Nam xong công việc, tôi mới lên tiếng : “ Nam à, có ai ở nhà không con?”. Một ánh mắt ái ngại vì biết tôi đến nhà và trông thấy sự tồi tàn của căn nhà, em đang chuẩn bị nấu cơm. Thế là tôi đã ngồi lại cùng trông nồi cơm cùng em, hỏi han về gia đình em. Lúc đó mới rõ hơn: cha mẹ em cách đây 3 năm đã thường xuyên cãi nhau vì bố đi lái tắc-xi nhưng có bồ bịch nên bỏ bê công việc, bán cả chiếc xe để đi chơi, chưa đủ về đòi bán đất của ông bà nội Nam...Đến năm ngoái vì không chịu được và bố Nam cũng muốn danh chính ngôn thuận đón cô gái kia về làm vợ nên hai bố mẹ đã li hôn. Nhưng rồi bố Nam còn mê mẩn cô gái đến mức đòi bán đất không được liền đuổi ông bà Nam xuống căn nhà cũ (vì căn nhà tầng của nhà Nam trước do được đền bù tiền ông bà xây cho và sang tên cho Nam – dưới sự giám hộ của bố Nam thôi). Thật trớ trêu! Thế nên Nam nói em thấy xấu hổ lắm, em không còn tâm trí để học. 
Đúng là cảnh đời lắm nỗi, không biết nói gì tôi an ủi Nam và mong con cố gắng vì mình và ít nhất vì ông bà. Lần đầu tôi nhìn thấy Nam ngân ngấn nước mắt, ánh mắt toát lên sự buồn mà vui, ánh mắt ấy mới hiền làm sao.
Rồi càng tìm hiểu tôi còn biết em rất say mê đánh cờ tướng vì từ nhỏ em đã được ông nội dẫn đi trong những buổi ông dạy các anh chị tuyển thủ của xóm, làng ; xem trong các ngày hội làng đánh cờ người ; lúc nào cũng muốn học thật giỏi để ông dạy cho hết các nước cờ hay, làm thế nào phá được các nước cờ khó....Tôi nghĩ, nếu Nam giỏi được cờ tướng thì không lí nào không giỏi văn hóa được. Vì thế vào mỗi dịp có tổ chức thi các giải thể thao ở trường, huyện (trước) tôi đều ghi tên em và quả thực em đã mang về cho trường giải cao.
Cũng từ đó em bắt đầu cố gắng hơn trong mọi hoạt động, đã dần tiến bộ, cuối kì còn được HSTT.
 -Giáo dục bằng tập thể:
Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh cá biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em đều trả lời một câu chung nhất( không biết) - đối với những em có quan hệ gần gũi với HS cá biệt, cũng có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe doạ của các bạn...Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ, những việc làm của các em cá biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết rõ nhất.
	Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều tra bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một đối tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi với các em bằng cách bảo mật thông tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn tin chính xác nhất.	Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, GVCN hướng dẫn các em gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho những em cá biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn bè các em sẽ bộc lộ rõ cá tính không e ngại. GVCN thường xuyên giữ mối quan hệ với các em này tìm hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục HS cá biệt để tháo gỡ khó khăn cho các em, thường xuyên cung cấp biện pháp xử lý kịp thời những biến động của các đối tượng và động viên các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục, giúp đỡ học sinh cá biệt tiến bộ.
	Ví dụ: Em Nguyễn Văn Thịnh lớp 7 A5 do cô Đỗ Thị Hương chủ nhiệm là một HSCB, rất hay gây gổ và dường như đánh “ không thương tiếc” đối với các bạn bằng một “máu liều” đến nỗi hai ba bạn to con nhất lớp còn phải nể sợ dù em nhỏ con hơn nhiều.
 Em rất hay gây sự bằng cách là ngáng chân các bạn khi các bạn đi qua lớp mình, bạn nào lên tiếng là Thịnh sửng cồ lên luôn và thế là xông vào đánh nhau. Rồi chẳng ai dám nói khi Thịnh làm điều gì quá đáng, bị đánh cho sưng hết cả môi vều ra, rách môi phía trong mà khi cô giáo hỏi thì bảo em bị ngã. Cô Hương đã rất vất vả để có thể tìm được câu trả lời thực, ban đầu là từ các HS khối trên nói ra vì Thịnh “ nổi tiếng” lắm. Điều này buộc cô Hương phải vào cuộc nhiều hơn. Cô đã phải một lần nhờ một bạn gây sự lại để cô chứng kiến được cuộc ẩu đả sắp diễn ra (được báo trước - vì cô biết rằng với tính hung hăng ấy thì chỉ cần một lí do nhỏ thôi cũng làm Thịnh tức và xông vào đánh nhau ngay.). Đến lúc này Thịnh mới nhận lỗi.
 Qua điều tra, hỏi han cô Hương cũng mới rõ hơn vì Thịnh là HS nơi khác chuyển đến. Thịnh là con nhà giàu có lắm, nhưng bố Thịnh lại rất hay cục cằn, đánh mẹ Thịnh có lần còn phải đi khâu. Em cũng chịu những trân đòn của bố không kém. Vì vậy em muốn có sức mạnh để người khác sợ.
 Bằng giáo dục tập thể, cô Hương đã mạnh dạn và trao đổi để Thịnh vạch lưng để các bạn xem những vết lằn roi. Và phân tích với lớp, Thịnh rằng ai đánh cũng bị đau cả, mình khỏe hơn người này nhưng có người khác khỏe hơn mình thì sao?
 Từ đó Thịnh bớt dần và kiềm chế được mình, say sưa việc học hơn. Trở thành “ đại ca Dế Mèn cho các chị nhà Trò trước bọn nhện”, và từ đó biệt danh Thịnh Dế Mèn ra đời. Em vui vẻ chấp nhận nó.
 - Kết hợp với phụ huynh học sinh:
Một số GVCN trao đổi việc giáo dục học sinh cá biệt qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp, GVCN báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và mời phụ huynh các đối tượng này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh.Ngoài ra GVCN còn trao đổi việc giáo dục các em qua việc đến thăm gia đình học sinh. Khi đến thăm gia đình học sinh, GVCN có thể tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia đình và nắm được tình hình của các em ở nhà.Hay GVCN có thể trao đổi việc giáo dục học sinh cá biệt bằng phiếu liên lạc, tin nhắn qua sổ liên lạc điện tử. Ở một số lớp, GVCN quy định mỗi em có một sổ liên lạc giữa phụ huynh học sinh và GVCN lớp. Để tránh trường hợp các em giả mạo việc nhận xét vào sổ, đầu năm các giáo viên yêu cầu phụ huynh ghi đầy đủ thông tin và ký tên vào sổ, nộp cho GVCN, hằng tuần có việc cần thiết liên hệ với phụ huynh, GVCN sẽ ghi vào sổ để các em đem về trình với phụ huynh vào ngày thứ bảy và nộp lại cho GVCN vào thứ hai. Cách làm này cũng có thể thường xuyên trao đổi với phụ huynh và kịp thời giáo dục, chấn chỉnh những sai phạm của các em.Đối với một số trường hợp đặc biệt, GVCN cũng có thể gửi thông tin về gia đình học sinh thông qua mạng liên lạc điện tử. Cách làm này có tính chất cập nhật thông tin nhanh chóng, chính xác và qua đó giúp gia đình học sinh nắm bắt thông tin nhanh và có biện pháp phối kết hợp với GVCN để giáo dục học sinh kịp thời.
- Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn:
Như phần trình bày nguyên nhân trên, một phần biểu hiện cá biệt của các em là do quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa tốt, có em có những phản kháng đối với những hành động quá đáng của một vài giáo viên. ví dụ như có giáo viên dùng những lời quá nặng nề trong việc nhận xét học sinh không thuộc bài cũ, không hiểu được bài hay có những biểu hiện áp đặt, thiếu công bằng ... Để xác định chính xác cá biệt của học sinh từ nguyên nhân này hay không, GVCN thăm dò hỏi tất cả giáo viên dạy bộ môn của lớp để có biện pháp giáo dục thích hợp và cũng từ đó GVCN có thể góp ý ngay với giáo viên trong việc cần phải tôn trọng và công bằng trong đối xử với HS .
Cũng có thể do tính cách cá biệt của các em, ở mỗi môn học em có một biểu hiện cá biệt khác nhau, GVCN tổng hợp các ý kiến để xác định nguyên nhân cơ bản. 
	Từ việc trao đổi trên GVCN tìm ra những ưu điểm của các em để động viên đồng thời lồng vào từng chút một những khuyết điểm của các em để nhắc nhở khắc phục.
- Kết hợp với các ban ngành, các bộ phận trong và ngoài nhà trường:
	+ Kết hợp với tổ chức Đội thiếu niên:
Đây là tổ chức chuyên về mảng giáo dục hạnh kiểm học sinh. Tổ chức này có ban chỉ huy liên chi đội, có đội sao đỏ thường xuyên theo dõi các hoạt động của toàn trường và từng lớp học, có một tổng phụ trách Đội chuyên trách tổ chức các hoạt động Đội và kịp thời xử lý những vi phạm của học sinh, hơn thế nữa có phong trào thi đua làm đòn bẩy nên thường các biện pháp luôn đạt hiệu quả giáo dục cao.
 + Đối với đội cờ đỏ: GVCN yêu cầu các em ghi lại tên của tất cả những em vi phạm - có như vậy mới kịp thời có được thông tin và xử lý dứt điểm những vi phạm đựơc.
	+ Với tổng phụ trách Đội: GVCN thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ. Đề nghị TPT Đội tham mưu với chính quyền nhà trường và công an phường phối hợp tổ chức giáo dục các đối tượng học sinh cá biệt.
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng các biện pháp đã sử dụng
2.3.3.1. Ưu điểm
Nhờ có sự phối kết hợp nhiều biện pháp giáo dục khác nhau nên số lượng học sinh chưa ngoan trong trường mỗi năm một giảm. Tìm được nhiều tài năng cá biệt từ những HSCN.
2.3.3.2. Tồn tại:
Bên cạnh những kết quả khả quan mà thầy và trò nhà trường đã đạt được đặc biệt là việc giảm tỉ lệ học sinh cá biệt thì vẫn còn những em chưa cải tạo được hết, năm học 2015 - 2016 nhà trường đã buộc phải đuổi học 1 năm với em Trần Đăng Tú lớp 6B.
 Như vậy, giáo dục HSCN là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô GVCN phải đóng nhiều vai: vừa là tác giả, vừa là đạo diễn, là diễn viên, khán giả thậm chí có lúc tự coi mình là học sinh. Làm thầy phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì. Nếu thuở ấy mình là học sinh như bọn trẻ bây giờ mình thích thầy sẽ xử lý ra sao thì nay con trẻ cũng thế thôi. Phải biết rằng bài giảng là một “món ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ “ăn”, bỏ học dẫn đến kết quả giáo dục của thầy kém hiệu quả. 
 Và tôi đọc ở đâu đó có người nói và kịp ghi chép lại làm kim chỉ nam cho mình: “ Quản lý, đào tạo, chăm sóc và giáo dục các học trò cá tính của tôi không khác gì chế tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ cao cấp, người nghệ nhân phải tự tay làm tỉ mỉ, giàu cảm xúc sáng tạo, không thể làm ào ào như hàng công nghiệp sản xuất đại trà.”.
Từ việc nghiên cứu các dạng HS cá biệt và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ấy cũng như nghiên cứu các biện pháp mà đồng nghiệp đã sử dụng,cũng tự mình thực hành ,tôi đã tìm ra những phương pháp tối ưu để từng bước cảm hoá giáo dục các em.
CHƯƠNG III
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CHƯA NGOAN TIẾN BỘ
Từ những thực tế trên, sau đây là một vài cách giáo dục của bản thân trong việc giáo dục HSCN tiến bộ mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này.
3.1: Định hướng đề xuất biện pháp cho việc thực hiện các biện pháp cụ thể của GVCN:
* Xuất phát từ những biện pháp của các đồng nghiệp, định hướng của nhà trường, mỗi GVCN có những cách khác nhau áp dụng cụ thể cho từng lớp của mình. Riêng tôi, qua những điều trên, tôi thiết nghĩ mình cần phải có một số phẩm chất sau:
3.1.1. Biết lắng nghe: Giáo viên chủ nhiệm luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân thiết với học sinh, đặc biệt là với học sinh chưa ngoan, hãy khuyến khích các em nói ra những điều mình nghĩ bằng nhiều cách khác nhau. “Lắng nghe và thấu hiểu” là điều mà các học sinh chưa ngoan thật sự rất cần ở giáo viên chủ nhiệm.
3.1.2. Biết quan tâm: Giáo viên chủ nhiệm quan tâm bằng cách trò chuyện, hỏi thăm hoàn cảnh gia đình học sinh, về bạn bè thân của các em, biết được sở thích, cá tính cũng như thái độ, sự lễ phép của học sinh đối với người lớn. Kêu gọi và yêu cầu các học sinh khác trong lớp quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ bạn mình, không nên xem thường hay cô lập các bạn chưa ngoan đó. Dưới sự hỗ trợ của cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm luôn theo dõi được những biểu hiện hàng ngày của học sinh chưa ngoan, tránh được sự kết luận về vấn đề nào đó thiếu chính xác làm tổn thương đến tâm lý và tình cảm của các em.
3.1.3. Có uy tín với học sinh và đồng nghiệp về chuyên môn và tư cách đạo đức, tác phong sinh hoạt: Giáo viên có tầm hiểu biết rộng rãi ngoài việc biết tốt bộ môn của mình, bao giờ cũng giải đáp được vấn đề học sinh đang qua tâm thì ảnh hưởng và uy tín của giáo viên sẽ tác động mạnh đến việc giáo dục đạo đức học sinh. Mặt khác, uy tín về tư cách đạo đức của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành ý thức và hành vi của học sinh. Nếu được như vậy, chắc chắn rằng tầm ảnh hưởng của giáo viên chủ nhiệm đối với các học sinh chưa ngoan sẽ không nhỏ.
3.1.4. Động viên và định hướng: Thông thường các học sinh chưa ngoan không định hướng được mình cần rèn luyện thế nào để giúp ích bản thân và hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mặt khác, một trong những nguyên nhân chủ yếu làm học sinh chưa ngoan đều bắt đầu từ sự học kém, dẫn đến bất mãn, chán học rồi bỏ mặt mọi việc. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm là người giúp học sinh biết định hướng và động viên, khích lệ các em trên tinh thần “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Hãy tìm và tuyên dương những mặt tốt ở các em dù nhỏ thay vì cứ phê bình khi các em sai phạm.
3.1.5. Là “Người bạn lớn”: Giáo viên chủ nhiệm hãy là “Người bạn lớn” của học sinh. Chính điều này làm cho học sinh chưa ngoan thấy mình không hề bị “bỏ rơi”, tình cảm thầy trò được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, chia sẻ. Khi đó những lời động viên, những định hướng của giáo viên chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
3.1.6. Nghiêm khắc: Giáo viên chủ nhiệm tỏ ra nghiêm khắc với tất cả học sinh trong lớp, tôn trọng học sinh, xử lý mọi việc công bằng cho dù là cán bộ lớp hay học sinh chưa ngoan vi phạm. Như thế các học sinh chưa ngoan sẽ cảm thấy giáo viên chủ nhiệm đều tôn trọng mọi học sinh, không thiên vị, không hề “ghét bỏ” mình. 
3.1.7. Vui tính: Ngoài những điều trên, giáo viên chủ nhiệm cần phải có óc khôi hài, luôn vui vẻ với mọi người, kể cả học sinh chưa ngoan. Điều này giúp cho học sinh có cảm giác dễ gần với giáo viên, dễ sẻ chia tâm sự, mối quan hệ giữa thầy trò tránh được sự căng thẳng.
3.1.8. Đặt chữ “Tâm” lên hàng đầu: Người giáo viên được xem là “Kỹ sư tâm hồn”. Chính cái “Tâm” của người giáo viên chủ nhiệm sẽ giúp cho họ có đủ kiên nhẫn để thực hiện hết trách nhiệm của mình. Đó là năng lực để cảm hóa học sinh. Việc dùng nhân cách để giáo dục nhân cách chính là việc người thầy dùng nhân cách của mình để tác động vào học sinh, dạy học sinh bằng chính nhân cách của mình.
* Tiếp tục tôi đã tiến hành điều tra qua phiếu để hiểu tâm tư nguyện vọng của các em để có hướng xây dựng tốt các biện pháp: 
 Mẫu phiếu:
 MỘT SỐ CÂU HỎI KHẢO SÁT HỌC SINH 
Chú ý: Các câu trả lời của các bạn không ảnh hưởng đến việc xếp loại hạnh kiểm và học tập trên lớp mà nhằm góp phần vào phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài khoa học trong giáo dục.
1. Bạn hãy điền vào một số thông tin dưới đây:
Thông tin cá nhân (có thể không ghi): 
Họ tên  Lớp
Sở thích cá nhân:
Sở trường:
Số người trong gia đình:, là con thứ  trong gia đình:,
số anh chị em:
Mơ ước hiện tại:
Mơ ước tương lai:
Học lực năm học trước: Hạnh kiểm năm học trước:
2. Bạn đã bằng lòng với kết quả HL và HK năm trước chưa? 
a. Bằng lòng. 
b. Chưa bằng lòng. 
3. Bạn làm gì vào ngày nghỉ cuối tuần (chủ nhật)?
Ôn bài, đọc sách báo.
Xem phim.
Chơi game.
Trả lời khác: 
4. Bạn có thường giúp đỡ cha mẹ việc nhà không?
a. Có.
b. Không.
5. Theo bạn việc học tập có quan trọng không? 
a. Quan trọng. 
b. Không quan trọng. 
6. Theo bạn, tập thể lớp của bạn là một tập thể đoàn kết?
a. Phải. Những biểu hiện của sự đoàn kết: 
b. Không. Những biểu hiện của sự mất đoàn kết: 
7. Theo bạn quan sát, lớp bạn có bao nhiêu bạn học sinh chưa ngoan? 
Nam:  Nữ:  
8. Bạn tự xếp mình thuộc diện nào sau đây:
a. Rất ngoan.
b. Ngoan.
c. Chưa ngoan.
9. Bạn nhận thấy bản thân có chăm học không?
a. Có.
b. Không.
10. Bạn thích đi học không? 
a. Thích. 
b. Không. 
11. Bạn hãy nhận xét về tình hình đạo đức hiện nay của HS? 
Đa số ngoan.
Đa số ngoan, một số đạo đức sa sút.
d. Trả lời khác: 
12. Theo bạn, đâu là sự ảnh hưởng lớn nhất đối với đạo đức của HS hiện nay?
a. Gia đình.
b. Nhà trường.
c. Bạn bè.
d. Trả lời khác: 
13. Thời gian bạn tự học ở nhà là bao nhiêu giờ? 
.tiếng / ngày.
14. Cha mẹ bạn quan tâm đến bạn như hiện nay đối với bạn là:
a. Đủ.
b. Chưa đủ.
c. Trả lời khác: 
15. Thầy cô quan tâm đến bạn như hiện nay đối với bạn là:
a. Đủ.
b. Chưa đủ.
c. Trả lời khác: 
16. Bạn cần cha mẹ quan tâm đến bạn về điều gì nhất?
Học tập.
Tâm lý.
c. Trả lời khác: 
17. Bạn cần thầy cô quan tâm đến bạn về điều gì nhất?
Học tập.
Tâm lý.
c. Trả lời khác: 
18. Bạn cần thầy cô chủ nhiệm quan tâm đến bạn về điều gì nhất?
Học tập.
Tâm lý.
c. Trả lời khác: 
19. Bạn có cho rằng “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”? 
Có.
Không.
20. Bạn hãy chọn các đức tính về một giáo viên chủ nhiệm mà bạn mơ ước sẽ gặp trong tương l

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_chua_ngoan.doc