Một số cỏch giúp trẻ giảm bớt tínhh hiếu động, khú bảo, giúp hoàn thiện nhân cách đối với trẻ mẫu giáo
Cha mẹ khi sinh con ra, ai cũng muốn con mình ngoan, nghe lời, thông minh. Song trên thực tế, rất nhiều cha mẹ phải bối rối trước hành vi giao tiếp, cư xử không đúng mực hay chưa nghe lời của trẻ đối với những người xung quanh. Có những cha mẹ sẽ dùng những biện pháp cứng rắn, quát nạt, cưỡng chế hành vi và buộc trẻ phải tuân theo vô điều kiện. Có những cha mẹ cũng khuyên nhủ, trao đổi nhẹ nhàng với trẻ mong muốn trẻ nghe lời song kết quả thường không như các phụ huynh mong đợi. Trẻ có thể tại thời điểm đó tuân theo song trong đầu không chấp nhận lần sau vẫn tái diễn hành vi sai trái hoặc có thái độ chống đối ra mặt, phản ứng tiêu cực. Thái độ đó của trẻ làm người lớn và những người xung quanh cảm thấy khó chịu, xã hội không chấp nhận
2 Trong thời điểm xã hội hiện nay, vấn đề trẻ quá hiếu động, tăng động hay trầm cảm rất phổ biến. Đặc biệt một số trẻ còn mắc chứng bệnh tự kỉ tăng động. Vậy làm thể nào để giảm bớt tính hiếu động cho trẻ, làm sao để trẻ có thể chế ngự và kiểm soát tốt hành vi của mình?.
3 Tại các trường mầm non, đặc biệt trong nội thành Hà Nội, tình trạng quá tải trong các trường mầm non luôn xảy ra. Hàng năm, số trẻ tham gia đi học ở các lớp luôn vượt quá chỉ tiêu cho phép trong một lớp học. Tình trạng lớp đông, trẻ rất dễ lẫn trong nhóm bạn bè, giáo viên khó khăn trong việc quản lí, giữ trật tự trong các giờ học. Vô hình chung điều này cũng ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạycủa các hoạt học và hoạt động chăm sóc trẻ.
4 Trong các lớp học hiện nay, hầu hết đều có trẻ có những biểu hiện hiếu động. Trẻ có thể nói nhiều, chạy nhảy hoặc gây gổ với các bạn trong lớp. Một số trẻ còn có xu hướng làm trái lời người lớn yêu cầu, thường xuyên có những hành động làm phiền, chọc tức hoặc tấn công người khác. Trẻ thường muốn gây sự chú ý của mình với người khác thông qua việc làm và đi ngược lại với mong muốn của người lớn.
5 Thái độ khó bảo đôi khi là cần thiết trong quá trình phát triển tâm lý của trẻ, nó giúp trẻ tự khẳng định mình và tự hoàn thiện nhân cách của mình. Vậy vấn đề đặt ra cho cha mẹ, giáo viên và xã hội làm thế nào để nhận ra các hành vi, các bước
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số cỏch giúp trẻ giảm bớt tínhh hiếu động, khú bảo, giúp hoàn thiện nhân cách đối với trẻ mẫu giáo
t được tham gia lớp học: Giá Trị Sống, Tâm Việt. - Trường còn có nhiều giáo viên trẻ tâm huyết với nghề, có khả năng tổ chức các hoạt động tập thể và thu hút trẻ tập chung cao. Giáo viên luôn sáng tạo, tìm tòi các hình thức tổ chức hoạt động sao cho linh hoạt, sáng tạo và hấp dẫn trẻ. - Bản thân được theo lớp dạy trẻ trong thời gian dài, qua các độ tuối. 2. Khó khăn - Sĩ số trẻ trong trường, các lớp còn đông. - Trong lớp còn có trẻ mắc bệnh tự kỉ tăng động hoặc các bệnh khác. - Còn nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ. Phụ huynh thường có suy nghĩ: “ Mọi sự chăm sóc học hành nhờ cô giáo và nhà trường, bố mẹ cháu bận làm ăn.”. - Nhiệm vụ chăm sóc- giáo dục trẻ trên lớp chiếm nhiều thời gian nên thời gian giáo viên dành để tìm hiểu, nghiên cứu còn hạn chế. - Nhiều phụ huynh còn quá nuông chiều con, thường xuyên đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi của con cái. III. Nội Dung Vậy để giúp trẻ giảm bớt tính hiếu động, khó bảo giúp trẻ hoàn thiện nhân cách đối với trẻ ngay từ lứa tuổi mẫu giáo, gia đình, nhà trường và xã hội cần xử dụng những phương pháp, biện pháp nào để có kết quả tốt nhất, có tính dài hạn, giúp trẻ có sự phát triển nhân cách đúng theo chuẩn xã hội đề ra. 1 Cách làm thông thường Trong quá trình tổ chức các hoạt động CSGD , để ổn định, giáo viên thường yêu cầu trẻ trật tự, hát hoặc đọc thơ kể chuyện để trẻ chú ý trật tự. Nhiều giáo viên cũng tổ chức các trò chơi hoặc các thủ thuật, cô nói: “Miệng xinh”, hay có giáo viên còn đưa ra các bảng nội quy- có phần lời và phần hình ảnh- yêu cầu trẻ thực hiện theo. Giáo viên thường áp dụng các quy định bản thân mình cho là đúng và cần thiết hoặc tuân theo những nguyên tắc của những người đi trước mà thường không chú ý đến sự thay đổi tâm sinh lí trẻ trong giai đoạn độ tuổi hay trình độ của trẻ theo thời hiện tại của xã hội. Đa phần, các giáo viên thường sử dụng các mệnh lệnh mà không cần giải thích, mang tính chất áp đặt: yêu cầu trẻ trật tự, yêu cầu trẻ xếp hàng không nói chuyện, yêu cầu trẻ không được làm, không được chơi, không được làm những việc trẻ thích vì cho rằng điều đó không phù hợp với trẻ, không tốt cho trẻ mà không có lời giải thích nào, không đặt mình vào vị trí của đứa trẻ. Với cách làm này , bản thân người giáo viên hay người lớn nói chung khi đứng trước một sự việc, hành vi của trẻ mà người lớn cho là chưa đúng, điều đầu tiên thường có suy nghĩ mang tính chất rất áp đặt: “ Không được làm, không được lấy, không được vứt mà không cần giải thích. Điều này khiến đứa trẻ rơi vào tình trạng hoang mang, ức chế, bế tắc và không hiểu hành vi, lời nói của mình tại sao không được chấp nhận. Thậm chí nó còn gây ra sự bế tắc, kìm hãm sự phát triển, làm trẻ trở nên thụ động mất tự tin, thiếu sự hồn nhiên. Đây cũng là nguyện nhân không thu hút được sự tập chung hứng thú của toàn bộ trẻ trong những hoạt động kéo dài và không tạo được tính tự giác, sự ý thức của trẻ trong hoạt động chung và các hoạt động khác. Ngoài ra, cách làm này còn làm cho nhiều trẻ quá ngưỡng chịu đựng nên xuất hiện tính cách hằn học, bất mãn, bực bội, cáu bẳn, đánh bạn, phá đồ chơi khi không có sự quản lý của giáo viên hay người lớn. 2. Cách làm mới Việc giúp trẻ giảm bớt tính hiếu động, khó bảo giúp trẻ hoàn thiện nhân cách không thể diễn ra trong ngày một ngày hai, chính vì vậy việc lựa chọn các biện pháp phải mang tính dài hạn. Phải giúp trẻ nhận thức được việc làm của trẻ có tác động thế nào, kết quả ra sao với người xung quanh. Phải giảm bớt được những xung đột căng thẳng, cãi vã của trẻ thường ngày. Giúp trẻ thay đổi hành vi gây rối hoặc hành vi không phù hợp bằng một hành vi, thái độ được xã hội chấp nhận. Tôi đã sử dụng một số cách sau trong quả trình giúp trẻ giảm bớt tính hiếu động, khó bảo, giúp hoàn thiện nhân cách đối với trẻ trong lớp 2.1. Trao đổi với phụ huynh những trường hợp trẻ khó bảo, hiếu động, tự kỉ mang tính tăng động. Mục đích của việc làm này: Giúp giáo viên lớp xác định các hành vi của trẻ trước khi có những áp dụng cụ thể. Giáo viên có thể biết được hành vi thường không được chấp nhận ở gia đình của trẻ. Các biện pháp mà gia đình trẻ đã áp dụng và mức độ thành công của các biện pháp. Cách làm này còn cho giáo viên nắm được mức độ quan tâm, sự hiểu biết của gia đình về việc giáo viên định làm vói con mình. Giáo viên cũng sẽ nhận được sự đồng tình ủng hộ và có sự giáo dục đồng nhất giữa gia đình, nhà trường đối với trẻ. Để làm được điều này người giáo viên cần nhận định một cách chính xác những trẻ nào trong lớp có biểu hiện, hành vi khó bảo, tăng động. Giáo viên cần lập bảng theo dõi trẻ, thời điểm trao đổi với phụ huynh, nội dung theo dõi. Đồng thời giáo viên cần tận dụng tất cả các cơ hội tiếp xúc với phụ huynh. Thông thường là các cuộc họp phụ huynh. Đây là khoảng thời gian mà giáo viên có thể trao đổi thông tin, các biện pháp chăm sóc giáo dụng trẻ đến với tất cả các bậc phụ huynh nói chung. Ngoài ra, đối với trẻ, có tính hiếu động, khó bảo giáo viên cần có những cuộc trao đổi tiếp xúc riêng. Giáo viên cần có lịch hẹn với phụ huynh và có trao đổi sơ qua trước đó về vấn đề mình định bàn. Nếu trong lớp có nhiều trẻ hiếu động khó bảo, giáo viên cần có các lịch hẹn riêng với từng phụ huynh trong các ngày khác nhau. Để có tiếng nói chung thống nhất trong quá trình giáo dục trẻ, giữa giáo viên và gia đình cần có những trao đổi thẳng thắn, cởi mở và mang tính chất xây dựng muốn những gì tốt nhất cho trẻ. Mỗi một đứa trẻ có các biểu hiện và mức độ khó bảo khác nhau, đồng thời mỗi phụ huynh cũng có các cách dạy bảo khác nhau. Chính vì vậy cần có sự lắng nghe thống nhất giữa hai bên đối với từng đối tượng. STT Họ tên trẻ Thời gian trao đổi Nội dung trao đổi 1 Đặng Nhật Minh 5/9/2009 Biểu hiện tâm lí của trẻ trong thời gian tháng 8 2 Lê Đình Phong 04/10/2009 Trẻ hay trêu, đánh bạn 3 Trần Minh Khôi 8/10/2009 Trẻ có biểu hiện cục, dễ cáu giận, ném đồ chơi, đánh bạn. Với cách làm việc này, giáo viên nhận được sự đồng tình ủng hộ của phụ huynh rất cao. Giáo viên và phụ huynh sẽ lựa chọn ra các cách giáo dục phù hợp nhất đối với từng trẻ đồng thời cả hai bên đều cảm thấy thoải mái và sẽ có sự trao đổi thông tin, những thay đổi trong tính cách, hành vi cư xử của trẻ sẽ được hai bên trao đổi và tiếp tục giáo dục trẻ theo hướng phát triển tốt nhất cho trẻ về nhân cách. 2.2 Lập bảng mục tiêu cho trẻ trong lớp. Các vấn đề thường nảy sinh khi các thành viên trong gia đình không biết được người kia mong muốn gì, có nhu cầu gì. Ngay bản thân trẻ và giáo viên ở lớp cũng có lúc không hiểu hết nhau do không kiên trì nghe hết thông tin mà đối tượng cần trao đổi. Đây cũng chính là nguyên nhân trẻ thường không cởi mở, có thái độ chống đối và luôn tỏ ra bất hợp tác đối với người lớn. Việc lập ra mục tiêu đơn giản những điều mong muốn xuất phát từ nhu cầu của trẻ và người lớn để mọi người xung quanh biết được và bản thân trẻ chủ động, có ý thức thực hiện chúng một cách vui vẻ. Điều này rất quan trong, bỏi khi tự đặt ra mục tiêu của mình sẽ chính xác hơn nhiều so với người khác viết cho. Trẻ mẫu giáo chưa biết viết chữ, vì vậy cho trẻ đặt ra mục tiêu và người lớn giúp trẻ ghi lại các mục tiêu bằng chữ viết và trẻ “viết” bằng các hình ảnh tượng trưng cho mục tiêu của mình. Cách làm này giúp cho trẻ và người lớn đều theo dõi được trong quá trình đạt được mục tiêu của trẻ. Trước khi lập mục tiêu người lớn cần xác định cho trẻ một số việc cần làm, sau đó trẻ tự lựa chọn một hoặc hai mục tiêu phù hợp với bản thân để thực hiện. Mục tiêu đó có thể là ngắn hạn hoặc dài hạn. Với cách làm này trẻ sẽ cảm thấy công bằng vì được tôn trọng và có thể có quyền đưa ra ý kiến của mình. Đây là cách làm giúp trẻ tự chủ trước các hành vi mình định làm và hiểu rõ mình muốn gì?. Giấy ghi mục tiêu của từng trẻ Khi thực hiện không phải lúc nào các mục tiêu đặt ra cũng hoàn thành. Người lớn phải giúp trẻ bằng cách nhắc trẻ thực hiện theo đúng mục tiêu trẻ đã chọn. Trong trường hợp có các yếu tố khách quan tác động, người lớn có thể giúp trẻ xác định hoặc giảm bớt các mục tiêu hoặc thay đổi đôi chút sao cho phù hợp với hoàn cảnh. Điều quan trọng ở đây không phải là kết quả mà quá trình thực hiện mục tiêu của trẻ. Người lớn hãy biết ghi nhận những gì trẻ đã làm được so với bản thân trẻ, không nên lấy người khác để so sánh. Hãy nhắc trẻ: “ Điều quan trọng nhất đối với trẻ lúc này là gì?, Trẻ đã làm được điều quan trọng đó chưa?.” Với cách làm này đa phần trẻ trong lớp học thường tỏ ra thích thú và cố gắng thực hiện mục tiêu mà mình đã đề ra.Trẻ biết kiềm chế hành vi hơn và có ý thức trong việc hoàn thành mục tiêu của mình một cách tự giác không gượng ép. Và nếu trong trường hợp trẻ không hoàn thành mục tiêu cô giáo sẽ giúp trẻ định hướng điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của trẻ. Nếu cần thiết có thể trao đổi thêm với phụ huynh phối hợp để giúp trẻ hoàn thành mục tiêu. Bé tự gắn bảng mục tiêu Ví dụ: Bé Châu Anh không chịu xúc cơm ăn. Cô giáo có dành khoảng thời gian trò chuyện với trẻ và Châu Anh tự đưa ra mục tiêu tự xúc ăn. Sau một tuần ở lớp bé đã tự xúc và ăn hết xuất. Khi giáo viên trao đổi với phụ huynh và biết ở nhà bé vẫn chưa chịu tự xúc ăn. Cô đã cho bé một mẩu giấy và bảo: “ Con hãy trò chuyện với mẹ, xem mẹ cần gì ở con sau đó con suy nghĩ và xem con có thể làm được điều đó không. Nếu có thể hãy viết lại mục tiêu và bắt đầu theo dõi việc thực hiện mục tiêu xem đạt được mục tiêu đến đâu nhé! ”. Sau 3 ngày mẹ Châu Anh đã viết lại mẩu giấy gửi lại cô giáo: “ Con đã tự xúc ăn 3 ngày nay rồi, mẹ con rất vui” và có “chữ kí” của Châu Anh xác nhận nữa. 2.3. Lập “Bảng vàng”, ghi tên bé ngoan trong ngày, trong tuần lên bảng. Mục đích của cách làm này giúp trẻ và các bậc phụ huynh có thể theo dõi trực tiếp hàng ngày con mình và các bạn khác trong lớp học gì làm gì. Bản thân trẻ hay phụ huynh đều rất quan tâm tới: “ Bảng vàng”, khi trẻ có tên trên bảng, trẻ sẽ rất phấn khởi, tự hào và mong chờ được khoe với bố mẹ vào mỗi buổi chiều và báo các lại kết quả vì sao mình được lên bảng vàng cho bố mẹ biết. Với cách làm này giáo viên giảm bớt được việc trao đổi với từng phụ huynh mà phụ huynh cũng có thể nhanh chóng biết hoạt động của con trong ngày. Việc lập bảng vàng, ghi tên bé ngoan trong tuần, trong ngày lên bảng giúp trẻ luôn có ý thức phấn đấu, cạnh tranh, luôn có thái độ cư xử tốt đúng theo chuẩn mực cho phép, biết giúp đỡ cô, bạn bè, biết làm việc tốt với bản thân và người khác để được công nhận. Giáo viên sẽ đưa ra các tiêu chí được lên bảng vàng: chăm giơ tay phát biểu, biết giúp đỡ cô và bạn bè, có ý thức bảo vệ tài sản đồ dùng của lớp, biết tự phục vụ bản thân Và tùy thuộc vào đối tượng mà tiêu chí đó có được cô và các bạn công nhận hay không. Ví dụ: Đối với Minh Khôi – một bé ăn nhanh - thì tiêu chí đánh giá lên bảng vàng: chăm giơ tay phát biểu, còn đối với Danh Quang – bé ăn chậm – thì tiêu chí lên bảng vàng của bé là ăn nhanh, hết xuất. Hay đối với bé Nhật Vi nói nhỏ, ít giơ tay phát biểu thì bé phải khắc phục được nhược điểm đó mới có tên trên bảng vàng. Lập bảng vàng ghi tên trẻ có thành tích trong tuần. Với cách này trẻ sẽ luôn vui vẻ, tự nguyện phấn đấu để có tên trên bảng vàng và sự cạnh tranh luôn diễn ra rất lành mạnh. Kết quả giúp trẻ tự có nhu cầu hoàn thiện bản thân cao, trẻ sẽ thực hiện theo các chuẩn mực yêu cầu của xã hội gần như vô điều kiện và dần dần thói quen tốt nảy sinh trở thành một nhu cầu, một kỹ năng sống tốt của trẻ. 2.4. Trẻ nhận ra và được người khác công nhận giá trị của bản thân. Đối với những đứa trẻ khó bảo thường có những suy nghĩ không mấy tích cực, chúng luôn tự ti và có thái độ chống đối, bất hợp tác với thế giới xung quanh. Nó được biểu hiện thông qua hành vi cư xử của trẻ: không chịu tham gia các hoạt động tập thể, phá hoại thành quả mà cô giáo công nhận trong nhóm bạn bè, thường xuyên trêu chọc người khác, không muốn chơi với ai và nghĩ rằng: không ai muốn chơi với mình cả. Những trẻ này thường gặp khó khăn trong việc thiết lập các mối quan hệ xã hội, thường dễ bị kích động, có các phản ứng tiêu cực không hài lòng và dễ bị trẻ khác tẩy chay không cho chơi. Nếu đứa trẻ đó không thay đổi bản thân cứ phát triển như vậy sẽ luôn bị quy kết là trẻ cá biệt, trẻ hư, cứng đầu, khó bảo Để trẻ nhận ra và được người khác công nhận các giá trị của bản thân mỗi đứa trẻ, người lớn cần phải: Quan sát cách ứng xử của trẻ, xác định xem hành vi của trẻ là thiếu kiên nhẫn, nói quá nhiều, hoặc có những câu hỏi thái độ bất lịch sự. Nói cho trẻ biết những nhận xét, bày tỏ quan điểm rõ ràng: đồng tình hay không đồng tình của bạn và những người xung quanh trước thái độ và hành vi của trẻ. Đồng thời cần phải nhận ra và khen ngợi, nêu gương kịp thời với những thái độ và hành vi đúng theo chuẩn mực xã hội mà trẻ đạt được dù là nhỏ nhất. Để làm được điều này, người lớn cần có sự quan sát tinh tế, cảm nhận tốt , theo dõi sát sao từng bước đi, những tiến bộ nhỏ nhất của trẻ. Ví dụ: Nhật Minh là một em bé hiếu động, thường xuyên đánh bạn và bị các bạn trong lớp tẩy chay, không chơi cùng. Minh thường có thái độ bất hợp tác, không nghe khi cô phê bình trước lớp và tiếp tục nghịch hơn thậm chí bóp nát các sản phẩm do cô và các bạn làm ra, xé rách thú nhồi bông của lớp. Cô giáo đã có buổi trò chuyện với mẹ Minh và được biết mẹ vừa sinh em bé được 4 tháng, thường xuyên không quan tâm chăm sóc được Minh. Bố làm bộ đội và có cách giáo dục rất nghiêm khắc với bé. Giáo viên đã trao đổi việc sử dụng mục tiêu cho trẻ, cách khen ngợi trẻ đúng lúc đúng chỗ với mẹ bé( ví dụ: Trong một dòng tập tô không được đẹp của trẻ người lớn hãy tìm ra nét chữ đẹp nhất và động viên trẻ hãy cố gắng thể hiện các chữ còn lại như vậy thay cho việc chê trẻ tô xấu), cách giúp trẻ hiểu được bản thân mình có thể làm tốt những việc gì, nói cho trẻ biết mẹ mong muốn gì ở trẻ sau đó cô giáo và mẹ bé đã thống nhất cách giúp Minh. ở lớp và ở nhà Minh đều có những buổi trò chuyện cởi mở với mẹ, cô giáo. mẹ giao cho Minh trông em, cùng Minh thảo luận viết mục tiêu :“ Minh phấn chăm học, hay giơ tay phát biểu; được ghi tên lên bảng vàng”. Minh còn tự vẽ hình lên bảng. ở nhà, Minh cùng mẹ viết các công việc trong một tuần, riêng ngày thứ bẩy và chủ nhật, minh vẽ xem ti vi và nằm ngủ. Mẹ cũng dành nhiều thời gian bên Minh hơn, dành 15 phút mỗi tối cùng học bài với con, Minh giúp mẹ trông em, mẹ thường kể cho Minh nghe hồi nhỏ Minh đã được mọi người khen ngoan như thế nào ở lớp, cô giao cho Minh phụ trách hướng dẫn các bạn kê bàn ghế, làm tổ trưởng, dạy bạn ôn chữ cái, chịu trách nhiệm góc toán và chữ cái luôn gọn gàng, viết mục tiêu phấn đấu lên bảng vàng của lớp. Sau một tuần, Minh đã có những tiến bộ trông thấy: nhiều bạn chơi với Minh hơn, Minh có tên trên bảng vàng của lớp, Minh luôn có ý thức giúp cô kê dọn bàn ghế trước và sau giờ ăn, đảm bảo góc toán và chữ cái gọn gàng. Minh được cô nêu gương trước lớp cho các bạn học tập. Hiện nay, Minh là em bé ngoan, có nhiều bạn chơi, lôi kéo được các bạn biết giúp cô chuẩn bị trong giờ ăn, giờ học, giờ ngủ Mẹ cũng có những phản hồi tốt và hài lòng về Minh. Mẹ chuẩn bị giúp Minh lập mục tiêu mới. Cách làm này không chỉ hiệu quả với bé Minh mà nhiều bé khác trong lớp cũng có ý thức thực hiện các nội quy, quy định của lớp, tuân thủ một cách tự nguyện, biết bảo ban nhau trong lớp một cách hiệu quả nhất. 2.5 Tổ chức cho trẻ các trò chơi: 2.5.1. Đồ tượng - Cách chơi: Cô tổ chức cho trẻ chơi theo nhóm hoặc cả lớp. Cô yêu cầu trẻ hát và vận động phù hợp với bài hát và nhạc ( nếu có), khi cô tắt nhạc hoặc ra tín hiệu ngừng, trẻ đang ở tư thế nào sẽ đứng im ở tư thế đó. - Luật chơi: Nếu tắt nhạc hoặc có tín hiệu ngừng mà trẻ vẫn hoạt động trẻ sẽ nhẩy lò cò. Với cách chơi này giáo viên có thể rèn cho trẻ thói quen chuyển hoạt động từ động sang tĩnh và ngược lại từ tĩnh sang động nhanh chóng dễ dàng. Ngoài ra trẻ cũng học được cách: dùng tín hiệu, cử chỉ phi ngôn ngữ thay cho lời nói, mệnh lệnh khi giao tiếp với người khác. Đây cũng là cách để giúp giáo viên cho trẻ trật tự ngay khi cần thiết, và thiết lập ở trẻ thói quen tốt: giữ trật tự trong các hoạt động cần tĩnh hay cần trật tự để nghe người khác nói. Trẻ sẽ dễ tuân theo vô điều kiện và rất hứng thú không khiên cưỡng. Bé chơi đồ tượng 2.5.2 Thư dãn, thả lỏng cơ thể và tưởng tượng theo giai điệu bản nhạc. - Cách tiến hành: cô cho trẻ ngồi theo nhóm hoặc cả lớp, lựa chọn các bản nhạc mà cô định hướng trẻ và nội dung tưởng tượng. Cho trẻ thả lỏng cơ thể, nhắm hoăc mở mắt, ngồi tĩnh lặng lắng nghe và cảm nhận, tưởng tượng theo cách riêng của mình sau đó sẽ chia sẻ qua ngôn ngữ hoặc tranh vẽ cho cô và các bạn cùng biết. - Thực hiện: Cần sự tĩnh lặng tuyệt đối của trẻ. Cách này có hiệu quả tốt đặc biệt với trẻ hiếu động, khó bảo. Trẻ sẽ có khoảng thời gian tĩnh lặng cần thiết, mở lòng và có sự trải nghiệm riêng theo cách của bản thân. Bé ngồi thư giãn và tưởng tượng 2.5.3 Trò chơi trong góc thư giãn . - Cách chơi: ( Sử dụng với trẻ đang trong lúc nóng giận, khả năng kìm chế bản thân không tốt). Cô sẽ mời trẻ vào “ Góc thư giãn của” lớp, mời trẻ ngồi xé giấy cho vụn ra hoặc cửa sổ. bắt chước theo các khuôn mặt dán trên cửa sổ: vui, ngạc nhiên, tức giận, khó chịu, xấu hổ, buồn ... - Cô giáo cần đưa ra các yêu cầu cho trẻ này và quan sát trẻ từ xa hoặc cùng hoạt động với trẻ. Trẻ sẽ nhanh chóng giảm cơn nóng giận, lấy được bình tĩnh và cảm thấy dễ chịu hơn. Ngoài ra Cách này còn giúp trẻ cảm thấy vui vẻ hơn, thích thú và buồn cười. Trẻ sẽ , giáo viên còn chuẩn bị các thùng chứa giấy vụn, yêu cầu trẻ xé giấy cho đến khi giảm được cơn nóng giận. Sau đó giáo viên sẽ trò chuyện với trẻ để tìm hiểu nguyên nhân cơn giận của trẻ và giúp trẻ cùng trẻ giải quyết. 2.5.4. Trò chơi: “Xây tháp” - Cách chơi: Cô giáo yêu cầu trẻ xếp chồng các khối gỗ có kích thước khác nhau lên cao hết mức có thể sao cho không đổ. Trẻ có thể chơi theo nhóm hoặc cá nhân. Hoặc cũng có thể xếp thành mô hình: nhà, cầu. - Luật chơi: Đội nào làm đổ, đội đó phải nhẩy lò cò. Cách chơi này giúp kiềm chế ở trẻ tính hiếu động, rèn tính kiên trì. Tạo điều kiện cho trẻ hoạt động tĩnh nhiều và trẻ có khả nằn làm việc theo nhóm. 2.5.5 Trò chơi: “Thử tài đoán ý” - Cách chơi: Cô cho trẻ chia lớp làm 5 đội. Mỗi đội sẽ được xem tranh hoặc có một yêu cầu. Nhiệm vụ của các đội phải bàn bạc ( Không được dùng lời) sao cho có sự thống nhất trong 1 nhóm về cách thể hiện để đội bạn đoán ra được. - Luật chơi: Nếu đội bạn đoán ra được, đội thể hiện sẽ giành chiến thắng. Nừu không đoán ra, đội thể hiện phải nhẩy lò cò. Ví dụ: Giáo viên đưa ra hình ảnh: cái ghế, em bé đang xúc cơm, chìa khóa... Mục đích của trò chơi này giúp trẻ giảm tính động, trẻ phải suy nghĩ một cách tích cực, tư duy động não suy nghĩ nhiều hơn. Không những vậy phải đoán được ý bạn trong cùng một đội để thống nhất hành động. Nó giúp trẻ biết, hiểu được suy nghĩ của người khác mà không cần đến lời nói. Trẻ sẽ biết lắng nghe nhiều hơn, tích cực hơn trước khi đưa ra một quyết định nào đó. 2.5.6 Trò chơi: “Thi tìm các điểm tốt của bạn” - Cách chơi: Cô cho chia lớp làm 2 đội, mỗi đội cử ra 1 bạn. Nhiệm vụ của 2 đội tìm và nói về các điểm tốt của người bạn đội kia . Nếu đội nào tìm ra được nhiều điểm tốt hơn, đội đó giành chiến thắng. - Luật chơi: Thi theo hình thức đối đáp. Nếu thua, cả đội phải nhẩy lò cò. Mục đích của trò chơi này giúp trẻ biết nhận ra bạn mình cũng có những giá trị tốt. Trẻ biết tôn vinh nhau, biết nhận xét đúng đắn về nhau. Và trẻ sẽ nhận ra sức mạnh đoàn kết của tập thể. Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động mang tính thẩm mỹ cao: múa hát, đọc thơ, các trò chơi dân gian, các bài đồng dao. Việc tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động trong tập thể mang tính thẩm mỹ cao: múa , hát, đọc thơ, các trò chơi dân gian, các bài đồng dao, ca dao giúp cho đời sống tâm hồn của trẻ thêm phong phú, đa dạng. Với những hoạt động này giáo viên có thể tổ chức trong thời gian hoạt động tự do của trẻ. Việc đưa các trò chơi, các bài đồng dao, ca dao còn giúp trẻ xích lại gần nhau hơn, bản thân tâm hồn trẻ mở rộng hơn, trẻ cởi mở và có nhiều ý tưởng cho hoạt động tập thể. Một số các trò chơi có thể tổ ch
File đính kèm:
- mot_so_coch_giup_tre_giam_bot_tinhh_hieu_dong_khu_bao_giup_h.doc