Báo cáo biện pháp Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi - Hoàng Thị Minh Thủy

Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ tiếng nào đó để giao tiếp. Nói cách khác, ngôn ngữ là sự giao tiếp bằng tiếng nói.

Ngôn ngữ được dùng để chỉ chính sự vật, hiện tượng, tức là làm vật thay thế cho chúng. Nhờ vậy, con người có thể nhận thức được sự vật, hiện tượng ngay cả khi không có chúng ngay trước mặt, tức là ở ngoài phạm vi nhận thức cảm tính. Các kinh nghiệm của loài người cũng được cố định lại, được tồn tại và truyền đạt cho các thế hệ sau. Nhờ đó mà ngôn ngữ là phương tiện đắc lực của hoạt động trí tuệ (tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng). Ngôn ngữ được dùng để truyền đạt và tiếp nhận thông tin, để biểu cảm và nhờ đó thúc đẩy, điều chỉnh hoạt động của con người.

Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó ra đời và tồn tại cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ dùng để phục vụ mọi thành viên trong xã hội từ việc học tập, lao động đến việc vui chơi giải trí. Có thể nói rằng trong bất kì lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng cần đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp cho con người trao đổi tư tưởng tình cảm, bộc lộ những cảm xúc, xác lập và duy trì những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Quá trình phát triển ngôn ngữ là quá trình cung cấp từ ngữ cho trẻ, góp phần làm phong phú ngôn ngữ, đẩy mạnh quá trình phát triển trí tuệ và tình cảm đạo đức cho trẻ. Có thể nói rằng rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là góp phần tích cực vào việc trang bị cho thế hệ mầm non một phương tiện mạnh mẽ để tiếp thu kinh nghiệm quý báu của thế hệ cha anh. Đồng thời tạo điều kiện cho các cháu lĩnh hội các kiến thức, những hiểu biết mới lạ về thế giới xung quanh mình.

 

docx 27 trang Chí Tường 20/08/2023 10605
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi - Hoàng Thị Minh Thủy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi - Hoàng Thị Minh Thủy

Báo cáo biện pháp Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi - Hoàng Thị Minh Thủy
âm, kết hợp cùng chúng tôi trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Các cháu đều khỏe mạnh, nhanh nhẹn, ngoan ngoãn, thích tham gia vào các hoạt động và vui chơi.
Khó khăn:
Trường nằm trong khu vực dân trí không đồng đều.
Trẻ 24- 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và cá tính khác nhau.
Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu cũng như trật tự các từ khi nhắc lại câu của người lớn. Vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
85% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế dẫn dến tình trạng trẻ thường dùng từ chưa chính xác.
60% trẻ nói phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh
Trẻ nhút nhát, còn khóc nhiều ở giai đoạn đầu khi trẻ đến làm quen với trường lớp mầm non, với cô và các bạn mới.
Trên 70% là dân buôn bán và gia đình thường xuyên thuê người giúp việc nên ít quan tâm chăm lo, trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói để uốn nắn cho trẻ về ngôn ngữ.
Đứng trước một số khó khăn như vậy, tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ. Do đó qua thực tiễn dạy trẻ hàng ngày, trong những năm học vừa qua, tôi đã
rút ra một số kinh nghiệm sau:
Các biện pháp:
Là một giáo viên mầm non người trực tiếp giảng dạy cho trẻ 24– 36 tháng, bản thân tôi thấy việc phát triển vốn từ cho trẻ là rất cần thiết và quan trọng. Xong kết quả phát triển vốn từ của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố và nhiều các môn học như thơ truyện, nhận biết tập nói và bản thân trẻ phải được tiếp xúc với các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi
Cô phải sử dụng đồ dùng trực quan( vật thật) đồ chơi, đồ dùng tranh mẫu hấp dẫn để thu hút sự chú ý của trẻ.
Thực hiện giờ dạy cô cần sử dụng các thủ thuật linh hoạt và lồng ghép các môn học khác như: bài thơ, câu đố.
Trong quá trình dạy trẻ cô phải linh hoạt sáng tạo và thay đổi hình thức nhằm phát huy tính tích cực của trẻ.
Cô chú ý quan tâm bồi dưỡng từng đối tượng trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tạo môi trường phát triển lời nói cho trẻ.
Tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong công tác giáo dục phát triển lời nói cho trẻ.
Biện pháp 1 - Khảo sát trẻ đầu năm:
Đây là biện pháp theo tôi là rất cần thiết. Qua khảo sát tôi có thể nắm rõ những mặt ưu điểm, hạn chế và những đặc điểm riêng của từng trẻ cũng như sự nhận thức của trẻ là khác nhau.
Đúng vậy, ngay từ đầu năm học tôi luôn quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng trẻ nhằm khám phá , tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có những biện pháp giáo dục và nâng cao dần vốn từ cho trẻ. Khi tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu từ, về cách phát âm. Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp chưa đủ câu cho nên nhiều khi giáo viên chưa hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn hạn chế khi nói, trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc ngôn ngữ của trẻ còn nghèo nàn.
Đối với tuổi mầm non trẻ rất hiếu động tư duy của trẻ là tư duy cụ thể việc: “ Học bằng chơi – chơi mà học”, bởi vì thế giới xung quanh trẻ cái gì cũng mới lạ, trẻ thích tìm tòi, khám phá những sự vật hiện tượng xung quanh. Trẻ thường hỏi các câu hỏi: Tại sao ? Như thế nào ? Nhưng cũng còn một số cháu nhút nhát, ít nói, sợ hãi khi lên trả lời câu hỏi.
Ví dụ : Cháu 
Vì vậy phải chú ý đến từng đặc điểm cá nhân của trẻ, năm bắt được đặc điểm cá nhân của từng cháu, để có những biện pháp giáo dục tốt hơn.
Qua quá trình tiếp xúc với trẻ bản thân tôi thấy rất lo lắng về vấn đề này và tôi nghĩ rằng mình phải tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra biện pháp phát triển vốn từ và ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ một cách có hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người.
Kết quả khảo sát đầu năm như sau: Tổng số học sinh là 60
Phân loại khả năng
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ
và phát âm
20/60
33,3%
20/60
33,3%
10/60
16,7%
10
16,7%
Vốn từ
20/60
33,3%
20/60
33,3%
12
20%
8
13,4%
Khả năng nói đúng
ngữ pháp
25/60
41,6%
15
25%
10
16,7%
10
16,7%
Khả năng nói câu mạch lạc,
rõ ràng.
20/60
33,3%
20/60
33,3%
13
21,7%
7
11,7%
Biện pháp 2 - Trò chuyện với trẻ:
Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua trò chuyện với trẻ cô mới cung cấp mở rộng vốn từ cho trẻ. Cô phải tích cực trò chuyện cùng trẻ và yêu cầu trẻ trả lời các câu hỏi của cô rõ ràng.
- Cô giáo cần phải tận dụng mọi thời điểm để trò chuyện với trẻ như trong giờ đón hoặc trả trẻ, trong giờ ănNhững ngày đầu được làm quen với trường, lớp, cô và các bạn thì hầu hết trẻ đều nhút nhát, rụt rè khi tiếp xúc. Giáo viên cần phải có những giải pháp để làm thế nào cô và trẻ thân thiện với nhau. Theo kinh nghiệm của tôi chỉ cần sự quan tâm nhỏ như: vuốt má trẻ, cô nở 1 nụ cười và một câu hỏi ngắn của cô với trẻ đã làm cho đứa trẻ có tinh thần thoải mái, tự tin hơn trong ngày hôm đó.
+ Trong giờ đón trẻ giáo viên cần là người chủ động khi tiếp xúc với trẻ. VD: Cô A chào bạn P. Con chào cô chưa? Con có áo đẹp thế. Ai mua cho con?
Ảnh minh họa: Cô đón bé vào lớp
- Hàng ngày khi điểm danh tôi thường xuyên nhắc trẻ “ dạ cô” khi gọi đến tên mình. Mặc dù không phải cháu nào cũng trả lời cô khi được gọi tên. Tuy nhiên giáo viên vẫn phải duy trì công việc đó hàng ngày. Và để trẻ cảm thấy vui và thích khi được cô gọi tên thì khi đó tôi chuẩn bị sẵn những bông hoa tặng cho trẻ.
VD: Cô sẽ gọi tên các bạn, bạn nào “ dạ cô” thì sẽ nhận được bông hoa để gắn vào bảng bé ngoan nhé!
- Giai đoạn đầu chỉ cần trẻ nói từ đơn giản như: “ Chào cô, vâng, dạ”. Đến giai đoạn gần cuối năm đa số trẻ lớp tôi nói được câu “ Con dạ cô ạ!” và khoanh tay rất lễ phép.
+ Trong giờ ăn cô cho trẻ làm quen với tên gọi của các món ăn, các loại thực phẩm( thịt, cá, trứng) bằng cách hàng ngày thường xuyên trước khi ăn cô giới thiệu các món ăn và cho trẻ mời cô cùng các bạn ăn cơm.
Đồng thời trong giờ ăn cô cùng trẻ nói chuyện về thức ăn mà trẻ đang ăn như: “ Con ăn món gì đấy? Canh mùng tơi nấu với gì ? Các con có thích ăn
món này không?”. Giáo viên thực hiện thường xuyên sẽ giúp trẻ nhớ lâu và ngôn ngữ của trẻ được cũng phong phú hơn theo từng giai đoạn.
Biện pháp 3 – Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua giờ học Nhận biết tập nói:
Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường mầm non là công tác giáo dục có kế hoạch, có mục đích, có tổ chức và phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ như một phương tiện giao tiếp quan trọng. Vì thế, chúng ta phải dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, trong các giờ học và đặc biệt là giờ học Nhận biết tập nói đưa lên hàng đầu.
“ Trẻ lên ba, cả nhà học nói”.
Đúng như vậy, trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói một từ, nói ngọng, lắp Cho nên trong tiết học giáo viên cần phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Song song thì giáo viên cũng cần phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi thật rõ ràng, ngắn gọn. Và trong khi trẻ trả lời thì cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói cộc lốc
Việc chuẩn bị cho tiết học đóng vai trò hết sức quan trọng giúp năng cao kết quả học. Vì vậy tôi phải xác định được mục đích, yêu cầu của bài dạy là một việc bắt buộc đối với mỗi giáo viên, tôi luôn nghiên cứu kĩ giáo án thì mới vận dụng các phương pháp, biện pháp giảng dạy một cách linh hoạt, logic.
Ngoài việc tôi phải chuẩn bị giáo án kĩ càng ra tôi còn cần phải chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh vật thật, mô hình sinh động, hấp dẫn, mới lạ.
Ví dụ 1 : Trên tiết học dạy trẻ nhận biết “ Quả na, quả xoài ”.
- Tôi chuẩn bị đầy đủ quả thật, quả có màu sắc rõ ràng để trẻ được sử dụng các giác quan: sờ, nhìn, nếm, ngửi nhằm phát huy được tính tích cực và rèn khă năng ghi nhớ có chủ định của trẻ. Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát, cô cần đưa ra một hệ thống câu hỏi:
+ Đây là quả gì( Đây là quả xoài ạ!)
+ Quả xoài có màu gì?( Màu vàng ạ)
+ Ăn xoài con thấy chua hay ngọt?( Ngọt ạ)
Ngoài sự chuẩn bị đồ dùng đầy đủ, đẹp trong tiết dạy cô cần áp dụng tính linh hoạt, sáng tạo thay đổi hình thức dạy, lồng ghép các hoạt động để thu hút trẻ tập trung chú ý.
Ví dụ 2 : Trên tiết học cho trẻ nhận biết tập nói “ Hoa sen, Hoa đồng tiền”.
Tôi cho trẻ quan sát vườn hoa thật bằng những bông hoa tôi đã chuẩn bị và được tạo ra như một vườn hoa.
Đồng thời để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng cần quan sát, cô cần đưa ra một hệ thống câu hỏi:
+ Các con thấy trong vườn hoa có những loài hoa gì ? ( trẻ kể tên các loại hoa).
+ Các con thấy hoa sen như thế nào ? ( Rất đẹp )
+ Bông hoa này có màu gì ?	( Màu đỏ, vàng )
+ Khi ngửi hoa các con thấy như thế nào ? ( Mùi thơm )
+ Cánh hoa như thế nào ? ( Nhẵn )
Với cách tổ chức như vậy tôi thấy trẻ hứng thú, phát huy tính tích cực tham gia học tập, tư duy của trẻ phát triển tốt, rèn khả năng ghi nhớ, năng lực quan sát cho trẻ. Đồng thời ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển có hiệu quả hơn, trẻ biết diễn đạt sự hiểu biết của mình một cách mạch lạc hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên rõ rệt.
Ví dụ 3 : Dạy trẻ nhận biết tập nói “ Con chó, con mèo ”
Với giờ học này, tôi làm mô hình một trang trại có các con vật như: Chó, mèo sinh động hấp dẫn. Tôi để trẻ quan sát nhận xét, gọi tên những con vật mà trẻ thấy trong mô hình, sau đó cho trẻ về chỗ ngồi ổn định, tôi giả làm tiếng kêu hỏi trẻ; Đấy là tiếng kêu con gì ? Sau đó đưa mô hình con chó ra cho trẻ quan sát, nhận xét, gọi tên các bộ phận của con chó. Với cách giới thiệu như vậy, tôi thấy các cháu rất hứng thú học. Không phải chỉ giờ nhận biết tập nói tôi làm như vậy. Mà tôi thường xuyên thay đổi dựa vào nội dung giờ nhận biết tập nói để tìm cách giới thiệu hay nhất, tạo được sự hứng thú trẻ vào tiết học, xong tôi tiến hành đi sâu vào phần chính của bài đó là tập nói, rèn cho trẻ phát âm đúng và cung cấp vốn từ cho trẻ.
Ví dụ 4: Trên tiết học thơ, truyện
Cho trẻ làm quen với văn học là nhằm phát triển ngôn ngữ nói và kỹ năng nói mạch lạc ở trẻ. Do đó vốn từ của trẻ phải phong phú, đa dạng, có nhiều từ mới qua giờ học thơ, truyện. Giáo viên chuẩn bị powerpoint hoặc tranh có hình ảnh sinh động khi dạy là đã giúp trẻ được tri giác và tăng thêm từ ngữ tương ứng với nội dung tranh
- Trẻ nghe câu chuyện “ Thỏ ngoan”. Giáo viên muốn cung cấp cho trẻ từ “ Ào ào”
Cô có thể cho trẻ nghe tiếng mưa và giải thích từ “ Ào ào”. Bên cạnh đó cô chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học.
+ Bác Gấu trong chuyện cô vừa kể đi đâu?( đi chơi trong rừng)
+ Khi bị ướt bác gõ cửa nhà ai?( Nhà Cáo)
+ Bác Gấu có vào được không? Sau đó trời mưa thế nào?( Ào ào)
Cô kể 1- 2 lần giúp trẻ hiểu tác phẩm và đưa ra một số câu hỏi để trẻ biết được việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
+ Qua câu chuyện, con yêu quý ai?( Bạn Thỏ - Vì bạn Thỏ là người tốt bụng)
Đến khi kết thúc tiết học tôi tiếp tục sử dụng các biện pháp tích hợp, múa hát, đọc thơ, trò chơiĐể củng cố nội dung bài mà trẻ vừa được học, nắm vững phương pháp của giờ nhận biết tập nói với mục đích là phát triển ngôn ngữ cho trẻ, mở rộng hiểu biết về môi trường xung quanh. Thông qua quá trình nhận biết đã thúc đẩy sự phát triển các giác quan và sự phát triển chú ý có chủ định cho trẻ.
Bên cạnh đó, để giờ dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ nề nếp trong học tập đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt hiệu quả cao.
Biện pháp 4 - Tổ chức cho trẻ chơi theo từng nhóm:
Ở biện pháp này, tôi tổ chức cho trẻ được hoạt động theo từng nhóm nhỏ. Đây là cơ hội cho trẻ được trò chuyện, giao tiếp với các bạn và phát triển khả năng giao tiếp của trẻ, trẻ sớm học được cách truyền tải, suy nghĩ, cảm giác thành lời khi chơi với đồ chơi.
Ví dụ: Tôi cho trẻ chơi ru em. Mỗi nhóm ngồi 3-5 trẻ, mỗi trẻ ôm 1 con búp bê. Cô cũng bế búp bê , vừa làm động tác vỗ vào người búp bê vừa hát ru: Ru em à ơi và lắc lư người, từ đó cũng làm cho trẻ tăng trí tưởng tượng và nâng cao khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh.
- Hay trong trò chơi xếp hình, xâu hạt. Tôi cũng tổ chức thường xuyên để trẻ được hoạt động với đồ vật, để trẻ phát triển tư duy ngôn ngữ và trẻ có thói quen sử dụng các đồ chơi. Qua đó cũng kích hoạt cho trẻ phát triển ngôn ngữ.
Biện pháp 5 - Sử dụng tranh, ảnh trong các hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho trẻ:
Trong các tiết dạy và các giờ hoạt động khác tôi luôn đưa ra các bức tranh, ảnh có các nhân vật thể hiện được nội dung chủ đề. Tôi hướng dẫn trẻ quan sát một cách chi tiết những nội dung thể hiện trong tranh, trẻ rất hứng thú quan sát và từ đó hình thành kỹ năng cho trẻ. Trẻ không chỉ nhắc lại lời nói của cô giáo mà trẻ thể hiện sự hiểu biết của mình qua lời nói của trẻ.
Tuy nhiên cô giáo cần đặt những câu hỏi phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đứa trẻ.
Ví dụ: TC “ Sách về các hoạt động của trẻ”
Mục đích: Tập cho trẻ sử dụng câu ngắn kể về những hoạt động của trẻ
Chuẩn bị: Cô chụp những tấm ảnh về các hoạt động trong ngày của cô và trẻ. Cô xếp ảnh thành một cuốn sách có bìa cứng.
Tiến hành: Cô và trẻ cùng giở sách xem, cô sẽ đặt những câu hỏi đơn giản
+ Các bạn đang làm gì đấy?
+ Ai đang dạy các bạn học?
+ Các bạn xếp hàng để làm gì?..
- Những giờ trả trẻ tôi thường đọc sách, truyện có tranh minh họa, trẻ rất thích thú và luôn miệng hỏi về những nhân vật trẻ nhìn thấy trong tranh.
Biện pháp 6 - Các hoạt động khác:
Phát triển vốn từ thông qua giờ hoạt động góc:
Trong giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở lớp, là thời gian được coi là thoải mái nhất.Trong quá trình trẻ chơi sử dụng các ngôn từ khác nhau có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.
Ví dụ 1: Trò chơi bế em, cô nhập vai làm mẹ cho búp bê bú bình sữa, cho búp bê ăn, búp bê ngủ trẻ sẽ bắt chước những lời cô nói như: “Con của mẹ ngoan quá!”. Biết hát ru “ à ơi ” cho em bé ngủ.
Ngoài trò chơi, phản ánh sinh hoạt, trong giờ chơi, cô tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi học tập nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
+ L ơi! Búp bê của con ăn chưa?( Rồi ạ). Con đã cho búp bê ăn lúc nào vậy?( Vừa ăn xong ạ). Con cho búp bê ăn gì đấy?(Ăn bột ạ). Ăn xong con cho em làm gì?( Uống nước, lau miệng ạ). Em búp bê buồn ngủ rồi con hãy hát ru em ngủ nào ( Trẻ hát ru em ngủ).
Ảnh minh họa: Cô trò chuyện với trẻ trong góc bế em
Điều đó cho thấy giờ chơi không chỉ dạy trẻ kỹ năng chơi mà còn dạy trẻ nghe hiểu và giao tiếp cùng nhau.
Trong quá trình chơi, trẻ được thực hiện nhiều hành động khác nhau với đồ chơi, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát triển lời nói cho trẻ.
Ví dụ 2: Trò chơi sáng tạo cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá trình chơi trẻ bắt buộc phải giao tiếp với nhau do vậy vốn từ của trẻ được phát triển ngày một phong phú.
Trò chơi xếp hình: Xếp đoàn tàu
+ A ơi! Con đang xếp gì vậy? ( Con xếp đoàn tàu ạ ). Xếp đoàn tàu thì con xếp như thế nào?( Xếp cạnh nhau ạ). Con dùng những hình gì để xếp đoàn tàu? (Hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn ạ). Con xếp đoàn tàu để làm gì?
( Để chở khách ạ)
Hay trong trò chơi xếp bàn ghế cho gia đình
+ K ơi! Con đang xếp gì vậy?( Xếp bàn ghế ạ). Con dùng khối gì để xếp?( Khối vuông, khối chữ nhật ạ).
+ T ơi! Con xếp bàn này như nào?( Con xếp chồng các khối gỗ lên nhau ạ). Con xếp cái ghế như nào?( Xếp cạnh nhau ạ). Con xếp bàn ghế để làm gì?( Để ngồi ạ)
Ví dụ 3: Cho trẻ chơi góc cô và cháu cùng đọc sách.
Khi chơi góc này trẻ có thể tăng thêm hiểu biết của mình vừa có thể phát triển ngôn ngữ của mình:
Con đang xem sách gì vậy? Đây là hình ảnh con gì?( Con thỏ ạ).
Con thỏ đang làm gì?( Đang dặn con).
Đây là Thỏ mẹ và thỏ con trong câu truyện( Thỏ con không vâng lời) Con hãy kể lại nội dung câu truyện này cho cô nghe nào!( Trẻ kể )
Hay trẻ đang xem tranh ở góc cô hỏi: Đây là tranh con gì? Con gà trống sống ở đâu?( Trong gia đình ạ). Gà trống gáy như thế nào? ( Ò ó o) Con giả làm tiếng gà trống gáy đi?( Trẻ làm)
Ảnh minh họa: Cô và cháu cùng nhận biết một số con vật Ví dụ 4: Cho trẻ chơi góc hoạt động với đồ vật
Khi trẻ đang chơi góc hoạt động với đồ vật: Cô chồng sẵn mấy chiếc hộp lên nhau. Chuẩn bị cho vài ba trẻ chơi góc này. Khi trẻ chơi cô hỏi: Con đang làm gì ? Con đang xếp các hộp chồng lên nhau ạ. Con xếp như thế nào?( hộp to xuống dưới, hộp bé lên trên ạ)
Phát triển vốn từ thông qua hoạt động ngoài trời, các buổi thăm quan:
Hoạt động ngoài trời hay các buổi tham quan cũng rất quan trọng đối với trẻ, khi đi dạo trẻ được trực tiếp quan sát trẻ được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, không khí trong lành, cây cối cảnh vật xung quanh trẻ. Mục đích của buổi dạo chơi, tham quan là mở rộng tầm hiểu biết cho trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho trẻ. Vì vậy, khi cho trẻ tiếp xúc với các hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên, đặc điểm của đối tượng.
Ví dụ: Khi cho trẻ đi chơi vườn bách thú, cô hỏi trẻ: “ Con gì đây, trông nó như thế nào?...”( Con hươu cao có cái cổ dài)
Ảnh minh họa: Cô và bé đi Thiên Đường Bảo Sơn
Mỗi trẻ đều có khả năng tiếp thu lĩnh hội kiến thức khác nhau, có trẻ tiếp thu rất chậm. Vì thế không những trong các tiết học, trong các hoạt động chung, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, chơi tự doTôi thường đưa ra các câu hỏi để khuyến khích trẻ trả lời và để bồi dưỡng thêm cho từng trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Bên cạnh đó, tôi luôn chú ý đến đặc điểm cá nhân của từng cháu, đặc biệt là những trẻ tiếp thu còn chậm, chưa mạnh dạn, rụt rè, ít nói, nói ngọng, nói lắp
Ví dụ: Qua buổi hoạt động ngoài trời
Khi tôi cho trẻ quan sát cây “ Cây hoa hồng” trước tiên tôi hướng dẫn trẻ trực tiếp tri giác, tự nhận xét xem cây có những đặc điểm gì? Trẻ nói lên suy nghĩ, nhận xét của mình để phát triển ngôn ngữ, tư duy cho trẻ. Sau đó tôi đàm thoại với trẻ:
- Đây là cây hoa gì? Cây có những gì? Lá cây màu gì? Thân cây đâu?
Cánh hoa có màu gì? Muốn cây tươi tốt thì phải làm gì?
Khi trẻ phải trả lời các câu hỏi thì sẽ phát triển ở trẻ sự chú ý, tri giác
có chủ định. Với những câu hỏi cô đặt ra cho trẻ khi hướng dẫn trẻ đi dạo quan sát đều khích lệ ở trẻ nhu cầu giao tiếp, truyền đạt bằng ngôn ngữ của mình. Chính vì vậy trẻ được nói lên suy nghĩ, nhận xét của mình về các sự vật hiện tượng trong cuộc sống gần gũi xung quanh trẻ, làm tăng thêm số lượng từ cho trẻ. Bên cạnh đó cô luôn sửa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc mọi nơi để giúp trẻ có một nguồn vốn từ phong phú, đa dạng.
Hay cho trẻ chơi trò chơi vận động “ Trời nắng trời mưa” ở một phần của giờ hoạt động ngoài trời. Trẻ vừa hát vận động theo nhịp bài hát.
Qua quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy vốn từ của trẻ liên quan rất nhiều đến thời gian trò chuyện với trẻ hay không? Cô và cha mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về sinh hoạt và bạn bè hay không? Cô có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không? Ngày nghỉ, bố mẹ có đưa con đi chơi công viên không?
è Tất cả những điều đó không chỉ làm tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết và cảm xúc của trẻ.
- Có thể nói các hoạt động ngoại khóa, đặc biệt là việc tổ chức cho trẻ đi tham quan, du lịch là một hình thức nhằm cung cấp thêm vốn từ cho trẻ có hiệu quả nhất.
- Tổ chức cho trẻ tham gia vào các ngày lễ hội 20/10 20/11, 8/3, sinh nhật tháng của trẻ. Đồng thời giáo viên nên có nhiều hình thức tổ chức phong phú để trẻ hứng thú hơn.
Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trong mọi hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho trẻ:
Ở lớp những đồ dùng, đồ chơi như: Búp bê, 

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_phat_trien_von_tu_cho_tre.docx
  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_2017_233201815.pdf