Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường Mầm non Đắc Lua
1.1 Giải pháp 1: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Thông thường trẻ trong độ tuổi từ 24 đến 36 tháng bắt đầu biết nói những câu đơn giản và có thể đối thoại ngắn với người lớn. Tuy nhiên, thời gian này, vốn từ của trẻ thì chưa đủ để diễn đạt hết những hiểu biết của trẻ, trẻ nhút nhát, thụ động.
.Ví dụ : Cháu Quân, cháu Thảo My, Thiên thường hay nhút nhát, thụ động không trả lời câu hỏi của cô, giáo viên cần tạo nhiều cơ hội để trẻ tự nói chuyện có tinh thần thoải mái, Khuyến khích động viên, khen gợi trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp gợi cho trẻ những việc mà trẻ thích hoặc muốn làm.
Vì vậy phải chú ý đến từng đặc điểm tâm sinh lý cá nhân của trẻ, để có những biện pháp phù hợp với trẻ. Từ đó phát huy hết khả năng của trẻ, có các phương pháp dạy cho trẻ hứng thú hơn trong mọi hoạt động.
1.2. Giải pháp 2: Thay đổi hình thức giới thiệu bài .
Tùy thuộc nội dung bài dạy mà tôi lựa chọn cách gây hứng thú cho trẻ một cách linh hoạt nhẹ nhàng.
Vì vậy tôi phải xác định được mục đích, yêu cầu của bài dạy, tôi luôn nghiên cứu kĩ giáo án thì mới vận dụng các phương pháp, biện pháp giảng dạy tạo cho trẻ cảm giác gần gũi, vui vẻ, kích thích trẻ thích tham gia vào hoạt động của cô.
Ngoài việc tôi phải chuẩn bị giáo án kĩ càng ra tôi còn cần phải chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh vật thật, mô hình sinh động, hấp dẫn, mới lạ.
* Sử dụng mô hình:
( Hình ảnh: Mô hình đàn gà)
Ví dụ: trong tiết Nhận biết tập nói: Đề Tài : Con gà, con vịt hay con chim
Tận dụng nhạc của bài “ con gà trống ” cô và trẻ cùng xem phim về các con vật sẽ định học để trẻ củng cố lại kiến thức về các con vật dẫn dắt vào chủ đề “ động vật ” cũng như vào nội dung bài dạy chính chuẩn bị mô hình cho trẻ quan sát.
Trong khi quan sát, cô chỉ vào từng bộ phận của con gà, và cho trẻ nhắc lại.
Ví dụ: cô chỉ vào đầu gà, và hỏi trẻ đây là gì? ( để cho trẻ nói) sau đó cô đính chính lại đây là đầu gà, bây giờ các con hãy nói lại cùng cô nào! “Đầu gà” cho trẻ nói đi nói lại 2 – 3 lần, tương tự như vậy cô cho trẻ quan sát và gọi tên một sô bộ phận khác của gà.
( Hình ảnh: Trẻ quan sát mô hình)
* Sử dụng hình ảnh:
Giúp trẻ cảm nhận và nắm đ¬ược nội dung thông qua câu đố, hình ảnh bằng các hình thức:
Ví dụ: Với con gà : Các con vừa được nghe bài hát gì? Con gì gáy Ò Ó o o! Tôi có thể sử dụng hình ảnh con gà đang gáy tạo sự hấp dẫn cho trẻ hoặc cho trẻ xem hình ảnh con gà thật.
Khi quan sát có thể cho trẻ được sờ vào con gà
Cho trẻ giả làm gà gáy ò ó o.
( Hình ảnh:Tìm hiểu con gà trống)
(Hình ảnh: con gà trống)
Ví dụ: Với con vịt : tôi cho trẻ xem hình ảnh con vịt đang bơi hoặc làm động tác vịt bơi hoặc dùng câu đố, trò chơi tạo sự hứng thú đối với trẻ.
( Hình ảnh:Tìm hiểu con vịt)
Ví dụ: Với con chim : Cho trẻ nghe tiếng hót của con chim để trẻ đoán xem đó là con gì ? Sau đó cho trẻ xem hình ảnh. Qua hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ quan sát con chim đang bay. Chơi trò chơi chim bay, cò bay.
( Hình ảnh:Tìm hiểu con chim)
Thông qua mỗi hình thức làm quen với một số con vật gần gũi trẻ thì trẻ được củng cố, nói nhiều lần sao cho chính xác từ và tên các con vật cần làm quen và tìm hiểu thêm về một số bộ phận đơn giản của con vật đang tìm hiểu (mỏ , chân , cánh món ăn yêu thích ) tôi cho trẻ chơi trò chơi lấy thức ăn cho gà vịt.
Lúc đầu trẻ nói tên con vật to, rõ ràng cùng cả lớp 2-3 lần . Sau đó cô mời cá nhân, nhóm, cả lớp nói thật to rỏ ràng, mạch lạc: 5-6 trẻ .
Ví dụ : Dạy trẻ nhận biết “ Quả cam , quả xoài ”.
* Sử dụng vật thật: Cho trẻ xem hình ảnh quả xoài.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường Mầm non Đắc Lua
n tôi thấy cần phải tìm ra các biện pháp để giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ để từ đó nâng dần kết quả học tập của trẻ. Vì thế tôi luôn trăn trở làm thế nào ra những biện pháp hữu hiệu để giờ học của trẻ đạt kết quả tốt hơn. III . TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP 1. Đối với giáo viên: 1.1 Giải pháp 1: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Thông thường trẻ trong độ tuổi từ 24 đến 36 tháng bắt đầu biết nói những câu đơn giản và có thể đối thoại ngắn với người lớn. Tuy nhiên, thời gian này, vốn từ của trẻ thì chưa đủ để diễn đạt hết những hiểu biết của trẻ, trẻ nhút nhát, thụ động. .Ví dụ : Cháu Quân, cháu Thảo My, Thiên thường hay nhút nhát, thụ động không trả lời câu hỏi của cô, giáo viên cần tạo nhiều cơ hội để trẻ tự nói chuyện có tinh thần thoải mái, Khuyến khích động viên, khen gợi trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp gợi cho trẻ những việc mà trẻ thích hoặc muốn làm. Vì vậy phải chú ý đến từng đặc điểm tâm sinh lý cá nhân của trẻ, để có những biện pháp phù hợp với trẻ. Từ đó phát huy hết khả năng của trẻ, có các phương pháp dạy cho trẻ hứng thú hơn trong mọi hoạt động. 1.2. Giải pháp 2: Thay đổi hình thức giới thiệu bài . Tùy thuộc nội dung bài dạy mà tôi lựa chọn cách gây hứng thú cho trẻ một cách linh hoạt nhẹ nhàng. Vì vậy tôi phải xác định được mục đích, yêu cầu của bài dạy, tôi luôn nghiên cứu kĩ giáo án thì mới vận dụng các phương pháp, biện pháp giảng dạy tạo cho trẻ cảm giác gần gũi, vui vẻ, kích thích trẻ thích tham gia vào hoạt động của cô. Ngoài việc tôi phải chuẩn bị giáo án kĩ càng ra tôi còn cần phải chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh vật thật, mô hình sinh động, hấp dẫn, mới lạ. * Sử dụng mô hình: ( Hình ảnh: Mô hình đàn gà) Ví dụ: trong tiết Nhận biết tập nói: Đề Tài : Con gà, con vịt hay con chim Tận dụng nhạc của bài “ con gà trống ” cô và trẻ cùng xem phim về các con vật sẽ định học để trẻ củng cố lại kiến thức về các con vật dẫn dắt vào chủ đề “ động vật ” cũng như vào nội dung bài dạy chính chuẩn bị mô hình cho trẻ quan sát. Trong khi quan sát, cô chỉ vào từng bộ phận của con gà, và cho trẻ nhắc lại. Ví dụ: cô chỉ vào đầu gà, và hỏi trẻ đây là gì? ( để cho trẻ nói) sau đó cô đính chính lại đây là đầu gà, bây giờ các con hãy nói lại cùng cô nào! “Đầu gà” cho trẻ nói đi nói lại 2 – 3 lần, tương tự như vậy cô cho trẻ quan sát và gọi tên một sô bộ phận khác của gà. ( Hình ảnh: Trẻ quan sát mô hình) * Sử dụng hình ảnh: Giúp trẻ cảm nhận và nắm được nội dung thông qua câu đố, hình ảnh bằng các hình thức: Ví dụ: Với con gà : Các con vừa được nghe bài hát gì? Con gì gáy Ò Ó o o! Tôi có thể sử dụng hình ảnh con gà đang gáy tạo sự hấp dẫn cho trẻ hoặc cho trẻ xem hình ảnh con gà thật. Khi quan sát có thể cho trẻ được sờ vào con gà Cho trẻ giả làm gà gáy ò ó o... ( Hình ảnh:Tìm hiểu con gà trống) (Hình ảnh: con gà trống) Ví dụ: Với con vịt : tôi cho trẻ xem hình ảnh con vịt đang bơi hoặc làm động tác vịt bơi hoặc dùng câu đố, trò chơi tạo sự hứng thú đối với trẻ. ( Hình ảnh:Tìm hiểu con vịt) Ví dụ: Với con chim : Cho trẻ nghe tiếng hót của con chim để trẻ đoán xem đó là con gì ? Sau đó cho trẻ xem hình ảnh. Qua hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ quan sát con chim đang bay. Chơi trò chơi chim bay, cò bay. ( Hình ảnh:Tìm hiểu con chim) Thông qua mỗi hình thức làm quen với một số con vật gần gũi trẻ thì trẻ được củng cố, nói nhiều lần sao cho chính xác từ và tên các con vật cần làm quen và tìm hiểu thêm về một số bộ phận đơn giản của con vật đang tìm hiểu (mỏ , chân , cánh món ăn yêu thích ) tôi cho trẻ chơi trò chơi lấy thức ăn cho gà vịt. Lúc đầu trẻ nói tên con vật to, rõ ràng cùng cả lớp 2-3 lần . Sau đó cô mời cá nhân, nhóm, cả lớp nói thật to rỏ ràng, mạch lạc: 5-6 trẻ . Ví dụ : Dạy trẻ nhận biết “ Quả cam , quả xoài ”. * Sử dụng vật thật: Cho trẻ xem hình ảnh quả xoài. . (Hình ảnh: xoài cắt miếng nhỏ) (Hình ảnh: Trẻ ăn xoài) ( Hình ảnh:Tìm hiểu quả xoài) Tôi chuẩn bị quả thật quả chín và quả xanh, quả có màu sắc rõ ràng, quả xoài cắt miếng nhỏ, bỏ trong đĩa. Tôi cho trẻ sờ, ngửi, nếm để trẻ có thể cảm nhận được màu sắc mùi vị thông qua hoạt động này trẻ sẽ nhớ lâu hơn và có thể nhận biết được màu sắc, mùi vị của từng loại quả một cách nhanh chóng, chính xác. Ngoài sự chuẩn bị đồ dùng đầy đủ, đẹp trong tiết dạy cô cần áp dụng linh hoạt, sáng tạo thay đổi hình thức dạy, lồng ghép các hoạt động để thu hút trẻ tập trung sự chú ý của trẻ. * Sử dụng các câu đố: Ví dụ: Con gì ăn no Bụng to mắt híp Mồm kêu ụt ịt Nằm thở phì phò? * Sử dụng các trò chơi, trải nghiệm. Tôi cho trẻ quan sát bông hoa thật bằng những bông hoa tôi đã chuẩn bị Tôi hỏi trẻ : Các con thấy trong vườn hoa có những loài hoa gì ? Trẻ kể tên các loại hoa hoặc cô sẽ nói để trẻ biết và nói theo đó là hoa gì? (Khi cô nói đến hoa nào cô sẽ chỉ vào bông hoa đó) Các con thấy hoa hồng như thế nào ? ( Rất đẹp ) - Bông hoa cúc có màu gì ? ( Màu vàng ) ( cho trẻ nhắc lại màu vàng) - Bông hoa hồng có màu gì ? ( Màu đỏ) ( cho trẻ nhắc lại màu đỏ) - Khi ngửi hoa các con thấy như thế nào ? ( Mùi thơm ) ( cô cho trẻ ngửi) - Cánh hoa như thế nào ? ( Nhẵn ) ( cô cho trẻ sờ vào cánh hoa) ( Hình ảnh: hoạt động của trẻ) - Nhắc trẻ hoa hồng có gai, nên khi sờ các con phải cận thận. Với cách tổ chức như vậy tôi thấy trẻ hứng thú, tích cực tham gia học tập, tư duy của trẻ phát triển tốt đồng thời ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển có hiệu quả hơn, trẻ biết diễn đạt sự hiểu biết của mình, ý nghĩa của mình một cách mạch lạc hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng rõ rệt. 1.3. Giải pháp 3: Dạy trẻ trên tiết học chính. Qua thời gian tiếp xúc với trẻ tôi nắm được khả năng phát âm của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ phát âm sai sót nhiều. Ví dụ : Cháu Linh thường phát âm. “Con kiến” đọc là “ Con kiếng ” “Đi làm” đọc là “ Đi nàm” “Hạt xoài” đọc là “Hạt oài” Đối với những trẻ phát âm sai, ngay giờ học đó tôi đã chú ý sửa sai cho trẻ. Tôi nói trước rõ lời, nói chậm cho trẻ phát âm theo. khuyến khích động viên trẻ đứng lên phát âm đúng, rõ ràng. Nói từ từ, chính xác từng chữ một, có thể cho trẻ nói hai ba lần để trẻ nhớ. Trong lớp học tôi chia trẻ thành từng tổ, trong từng tổ có các cháu tiếp thu bài khác nhau : giỏi có, khá có, trung bình có. Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết tập nói đạt kết quả cao tôi luôn tìm ra những cách dạy hay để gây hứng thú cho trẻ. Ví dụ : Dạy trẻ nhận biết tập nói “ Con chó, con mèo ” Chủ đề : Những con vật nuôi trong gia đình. Với tiết nhận biết tập nói này, tôi làm mô hình một trang trại có các con vật chó, mèo sinh động hấp dẫn. Để trẻ quan sát nhận xét, gọi tên những con vật tôi cho trẻ về chỗ ngồi ổn định, tôi giả làm tiếng kêu hỏi trẻ ; Đấy là tiếng kêu con gì ?. Sau đó đưa mô hình con chó, mèo ra cho trẻ quan sát, nhận xét, gọi tên các bộ phận của con chó, mèo. Sau khi dạy trẻ nhận biết về tên gọi tôi tiến hành cho trẻ phân biệt giữa các đối tượng. Tôi thường cho trẻ phân biệt qua tên gọi, một số đặc điểm, tiếng kêu nổi bật nhằm phát triển tư duy của trẻ như: Đặc điểm phân biệt Con chó Con mèo - Tên gọi - Đặc điểm nổi bật - Tiếng kêu - Ích lợi - Con chó - Tai thính - Gâu gâu ( cho trẻ nghe tiếng kêu thật, trẻ nói: gâu gâu) - Nuôi để trông nhà ( hình ảnh chó trông nhà) - Con mèo - Mắt tinh - Meo meo ( cho trẻ nghe tiếng kêu thật, trẻ nói meo meo) - Nuôi để bắt chuột ( hình ảnh mèo bắt chuột) ( Hình ảnh:Tìm hiểu con chó, con mèo) Ví dụ: Cô đố các con biết con chó kêu làm sao? Con mèo kêu như thế nào? Để kích thích tư duy tính tò mò muốn khám phá của trẻ? Cho trẻ bắt chước tiếng kêu, hoặc tôi giả tiếng kêu của mèo và hỏi trẻ con gì vừa kêu đấy nhỉ! Đến khi kết thúc tiết học tôi tiếp tục sử dụng các biện pháp tích hợp, múa hát đọc thơ, trò chơiĐể củng cố nội dung bài mà trẻ vừa được học. Tôi có thể kết hợp hoạt động ngoài trời để cho trẻ xem hình ảnh con chó, mèo thật. Với cách giới thiệu như vậy, tôi thấy các cháu hứng thú học. Tôi thường xuyên thay đổi phương pháp, cách thức dựa vào nội dung bài nhận biết tập nói để tìm cách giới thiệu hay nhất làm sao để tạo được sự hứng thú sau đó đi sâu vào phần chính rèn cho trẻ cách phát âm đúng, chính xác nhất. Trong quá trình dạy tôi luôn chú ý rèn luyện cho trẻ có thói quen nề nếp trong học tập đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt hiệu quả cao. 1.4. Giải pháp 4 : Lấy trẻ làm trung tâm dựa vào khả năng của trẻ. Phương pháp này làm phát triển tính độc lập và tự tin của trẻ. Trẻ có khả năng suy nghĩ, khám phá mà mà không cần tuân theo bất kì sự chỉ dẫn nào. Vì vậy mà trẻ độc lập, có chứng kiến riêng và sẽ hoàn thành công việc sau khi đã trải qua một quá trình liên tục của những cố gắng và sai lầm. Tôi cho trẻ trải nghiệm thực tế bằng việc cho trẻ đi tham quan, ngoài trời khu trồng rau, hồ cá nhỏ ở đơn vị, qua đó phát triển vốn từ cho trẻ. ( Hình ảnh: Trẻ xem ao cá) ( Hình ảnh: Trẻ xem vườn rau) Trong giờ học hãy để trẻ tự thể hiện, cô luôn là người động viên, khuyến khích trẻ sáng tạo. Trẻ cần được động viên để thể hiện ý muốn, tình cảm, cảm xúc và những hiểu biết của trẻ đối với sự vật, trẻ muốn được lựa chọn. Giáo viên nên đưa ra câu hỏi gợi ý giúp trẻ củng cố và áp dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động viên trẻ suy nghĩ, thăm dò, tìm cách giải quyết vấn đề của trẻ. Hãy để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và có thể làm. Nhằm giúp trẻ tăng trí thông minh, khả năng ghi nhớ, nhận biết môi trường tự nhiên. Không những thế qua những bài tập trẻ có cơ hội khám phá, học hỏi những kiến thức căn bản. Từ đó một số tính cách của trẻ như sự kiên trì, nhẫn nại, ham học học và đặc biệt là ngôn ngữ dần hình thành phát triển. Sau khi nắm được nhu cầu, hứng thú, khả năng của từng trẻ để có cách giảng dạy phù hợp. Và cũng chính sự khác nhau đó, đòi hỏi tôi phải tạo cho trẻ có nhiều cơ hội để học tìm hiểu thực tế. Tạo môi trường trong lớp học và tận dụng tất cả không gian trong và ngoài lớp học nhằm tạo điều kiện cho trẻ được học, được trải nghiệm, được khám phá mọi lúc, mọi nơi. Cần phải xây dựng tổ chức môi trường giáo dục, tạo nhiều cơ hội cho trẻ học bằng nhiều cách khác nhau để trẻ chủ động tham gia các hoạt động vui chơi, khám phá, trải nghiệm theo phương châm “học mà chơi, chơi mà học” phù hợp với từng độ tuổi khác nhau. Tôi tự thiết kế kế hoạch giảng dạy để dạy trẻ đạt kết quả tốt nhất, căn cứ vào khả năng, nhu cầu học tập, kinh nghiệm sống của trẻ để xác định mục tiêu, nội dung cụ thể trong từng hoạt động và đảm bảo tốt mục tiêu giáo dục đề ra. Việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ trong quá trình tham gia các hoạt động giáo dục tại trường. Việc sáng tạo trong việc làm đồ dùng, đồ chơi phong phú, đa dạng mang tính giáo dục và thẩm mỹ. Trẻ sẽ tích cực, chủ động tham gia các hoạt động, làm việc theo nhóm để được trải nghiệm, trao đổi, chia sẻ và trình bày ý kiến của mình; biết suy nghĩ và vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống, giải quyết các tình huống mà trẻ gặp phải Từ đó, trẻ mạnh dạn, tự tin, tích cực, chủ động, tư duy, sáng tạo, thích thú tìm tòi, khám phá trong quá trình tham gia các hoạt động giáo dục ở trường, ở lớp. 2. Đối với trẻ: 2.1 Giải pháp 5: Dạy trẻ mọi lúc mọi nơi. Ngoài những hoạt động chính ra tôi thường dạy trẻ phát tiển vốn từ thông qua các tiết học, lúc đón trẻ, trả trẻ hoặc trong các hoạt động chung, hoạt động góc. Hoạt động ngoài trời, chơi tự doTôi thường đưa ra các câu hỏi để bồi dưỡng thêm cho từng trẻ ở mọi lúc mọi nơi, 2.1. Thông qua giờ đón trẻ : Lúc đón trẻ tôi cũng thường trò chuyện với trẻ, tôi chú ý đến, cử chỉ hành động của trẻ, nhắc trẻ nói tròn câu, nói mạch lạc, không ngắt quảng, không nói lắp Ví dụ : Ai vừa chở con đi học ? Con có thích được đi học không ? Tôi hướng dẫn trẻ cách chào cô khi trẻ đến lớp, chào tạm biệt bà khi bà về hoặc đến đón trẻ. ( Hình ảnh:Trẻ biết chào cô, chào bà) 2.2. Thông qua giờ ăn : Trước khi ăn tôi hỏi trẻ hôm nay các con ăn gì ? ( Cô giới thiệu cho trẻ nhắc lại tên món ăn) hoặc khi chia cơm tôi cho trẻ đọc bài thơ giờ ăn, giúp hình thành thói quen phát triển vốn từ cho trẻ. Đến giờ ăn cơm Vào bàn bạn nhé Nào thìa, bát, đĩa Xúc cho gọn gàng Chớ có vội vàng Cơm rơi, cơm vãi. 2.3. Thông qua giờ ngủ : Cô kể cho trẻ nghe câu chuyện hay, nhẹ nhàng để trẻ dễ dàng đi vào giấc ngủ. Ví dụ: Câu chuyện “ Thỏ ngoan” “ Khỉ con biết vâng lời’ “ Chú gấu con ngoan” hoặc cô cho trẻ nghe những giai điệu nhạc nhẹ nhàng, hoặc nghe bài thơ « đi ngủ » khi trẻ quen rồi thì sẽ cho trẻ đọc theo. 2.4. Thông qua hoạt động góc: Góc sách - truyện: Cô cho trẻ xem tranh chuyện trong chủ đề. Góc phân vai: Cô cho trẻ tập nhận biết giọng các nhân vật trong câu chuyện. Ví dụ: Câu chuyện “ Quả trứng”. Giọng bạn gà và bạn heo đều ngạc nhiên khi nhìn thấy quả trứng . 2.5 Thông qua giờ chơi : Trẻ nhà trẻ chủ yếu là hoạt động với đồ vật thông qua trò chơi trẻ rất thích thú khi chơi, Trong khi chơi tôi hỏi trẻ cô đang cầm quả gì đây ? hay con đang cầm cái gì ? nhắc lại tên món đồ chơi mà cô đang cầm, hay trẻ đang cầm. Ví dụ : tôi yêu cầu trẻ cầm và lấy đúng đúng tên đồ chơi mà tôi yêu cầu hoặc nói đúng tên đồ vật mà cô đang cầm là gì ? Tôi cũng tổ chức thường xuyên các trò chơi khác nhau để trẻ được hoạt động phát triển tư duy ngôn ngữ tăng vốn từ cho trẻ. Qua đó cũng kích hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ được mạch lạc, lưu loát, tự tin hơn trong giao tiếp. Sắp hết giờ chơi tôi cũng đọc thơ cho trẻ nghe và hướng dẫn trẻ đọc theo. Giờ chơi hết rồi Nào các bạn ơi Ta cùng cất dọn Đồ dùng dồ chơi Vào nơi qui định Tạo điều kiện môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động nhận biết tập nói dạy trẻ nhiều lần. Tôi luôn chú ý đến đặc điểm cá nhân của từng cháu, đặc biệt là những trẻ tiếp thu còn chậm, chưa mạnh dạn, rụt rè, ít nói, nói ngọng, nói lắp. Khoảng thời gian này trẻ đang dần hoàn thiện về bộ máy phát âm, chính vì vậy phải tăng cường khả năng diễn đạt cho trẻ, tôi luôn luôn chú ý lắng nghe trẻ thể hiện tình cảm suy nghĩ của mình. Tôi đã áp dụng các phương pháp phù hợp để dạy trẻ nói chuyện lưu loát hơn theo các mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. chỉnh sửa các lỗi dùng từ hoặc phong cách không hợp lý. Mới đầu tôi hướng dẫn trẻ “Tự giới thiệu về mình, về gia đình mình”... Sau đó tôi dạy trẻ sử dụng các ngôn từ trong giao tiếp hàng ngày như: cảm ơn, xin lỗi, chào cô, các bạn, người lớn tuổi..., tập cho trẻ thành phản xạ nói tự nhiên. Và từ đó trẻ có thể thể hiện bản thân như: hát, đọc thơ những bài cô đã dạy.... Qua những cách tập nói đó tôi thấy các cháu mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp Từ đó trẻ có thể mạnh dạn hơn, biết trả lời các câu hỏi của cô, biết sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt ý nghĩ của mình giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt. Tạo môi trường để phát triển lời nói: Mỗi nhóm lớp đều có trang trí xắp xếp các góc hoạt động riêng, các biểu bảng được treo trong lớp, không trang trí cố định mà trang trí theo chủ điểm, dễ tháo lắp. 3. Đối với phụ huynh: 3.1 Giải pháp 6: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh Ngoài việc củng cố kiến thức thông qua các hoạt động “ Nhận biết tập nói ” thì việc trao đổi với phụ huynh để thống nhất chương trình, phương pháp dạy trẻ là việc làm cần thiết và quan trọng. Phối kết hợp với phụ huynh có ý nghĩa quan trọng và có nhiệm vụ thiết thực của từng nhóm lớp trong trường mầm non góp phần thực hiện tốt mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ. Vì thế vào đầu năm học tôi có kế hoạch họp phụ huynh để thông báo về nội dung chương trình của bộ môn và trao đổi về tình hình học tập ở lớp và tính cách của từng trẻ. Những giờ phụ huynh đón trẻ, hay qua bảng tuyên truyền những điều phụ huynh cần biết tôi tuyên truyền cho phụ huynh biết những nội dung cần phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong tuần, trong tháng. Tôi hướng dẫn phụ huynh biết cách dạy trẻ nhận biết tập nói ở nhà, phụ huynh có thể dạy trẻ nhận biết tập nói bất cứ ở lúc nào ở đâu. ( Hình ảnh:Tuyên truyền với phụ huynh) Khi dạy trẻ nhận biết tập nói phụ huynh cần lưu ý. Nên dạy trẻ nhận biết tất cả các sự vật xung quanh trẻ gần gũi phù hợp với trẻ, như đồ dùng trong gia đình, đồ dùng hàng ngày trẻ được tiếp xúc, được nhìn thấy, được tri giác. Ngoài ra tôi còn phối kết hợp với các bậc phụ huynh quan tâm hơn đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở gia đình như: dành thời gian trò chuyện với trẻ, cho trẻ được tiếp xúc với các hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ. Dạy trẻ cách diễn đạt câu sao cho rõ ràng, mạch lạc biểu cảm. Ví dụ : bố mẹ có thể hát các làn điệu dân ca đọc thơ, kể chuyện, đọc chuyện cho trẻ nghe. Điều đó cũng tăng thêm các biểu tượng về thế giới xung quanh và làm giàu vốn từ cho trẻ. Từ đây tôi thấy rằng nếu công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường tốt thì vấn đề giáo dục trẻ sẽ đạt kết quả cao từ công tác này nhà trường và gia đình cũng có thể bổ sung cho nhau những mặt mạnh mặt yếu của trẻ để cùng nhau có biện pháp giáo dục tốt hơn. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI * Kết quả đạt được. Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài “ Một số kinh nghiệm dạy trẻ 24 – 36 tháng Nhận biết tập nói ”. Sau gần một năm áp dụng một số biện pháp trên để dạy trẻ tôi thấy trẻ hứng thú học, nhận biết được đặc điểm của từng sự vật, trả lời đủ câu rõ ràng các câu hỏi, nhận biết môi trường sống, một số đồ vật gần gũi xung quanh trẻ nó thể hiện qua quá trình khảo sát đánh giá khả năng hoạt động “ Nhận biết tập nói ” của trẻ chất lượng giờ học đã được nâng lên rõ rệt, so với kết quả ban đầu trẻ mới đến lớp, ngôn ngữ của trẻ chưa rõ ràng nói còn ngọng có trẻ nói được một từ nhưng đến nay trẻ đã nói được nhiều từ, nói rõ ràng mạch lạc và vốn từ của trẻ phong phú hơn. Sau khi tôi áp dụng một số biện pháp mới thay đổi hình thức dạy cho trẻ ở lớp tôi phụ trách tôi thấy trẻ hứng thú tham gia, tích cực vào các giờ học, đặc biệt là giờ “ Nhận biết tập nói ” * Kết quả hoạt động nhận biết tập nói của trẻ: Biện pháp sử dụng Số lượng trẻ khảo sát Kết quả Khi chưa áp dụng biện pháp mới Sau khi áp dụng biện pháp mới Tìm hiểu tâm lý của trẻ 20 45 % - 53 % 98% - 99% Thông qua hoạt động học 20 50 % - 56 % 97% - 99% Dạy trẻ trên tiết học chính 20 54 % - 57 % 99% - 100% Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi 20 55 % - 60 % 98% - 100% Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh 20 50 % - 55 % 98% - 99% Lấy trẻ làm trung tâm dựa vào khả năng của trẻ. 20 50 % - 55 % 90% - 95% * Kết quả cuối năm Xếp loại Nội dung Tốt Khá Trung bình Không đạt Số trẻ % Số trẻ % Số trẻ % Số trẻ % Trẻ nghe, nói đủ câu rõ ràng mạch lạc 12 60% 7 35% 1 5% 0 0% Trẻ mạnh dạn, tự tin 17 85% 3 15% 0 0% 0 0% Trẻ nói ngọng Không còn trẻ nói ngọng Trong quá trình tìm hiểu đối với nhà trẻ 24 – 36 tháng tôi nhận thấy cho trẻ tìm hiểu quan sát hình ảnh thật giúp trẻ hứng thú ham học từ đó trẻ nói rỏ ràng mạch lạc, nhớ lâu hơn, tư duy của trẻ cũng từ đó phát triển mạnh hơn không chỉ dừng ở đó tôi còn cảm nhận thấy trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tinh thần của trẻ cũng rất là thoải mái, vui vẻ. Áp dụng biện pháp này tôi thấy vốn từ của trẻ tăng lên rất nhiều, không còn tình trạng nói ngọng, nói lắp như trước, trẻ đã có thể mạnh dạn tự tin trả lời được câu hỏi của cô, một số cháu đã có thể đọc được một đoạn thơ ngắn, bài hát ngắn đó là một dấu hiệu đáng mừng. Và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các cháu, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo. Điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước, thực hiện mục tiêu của ngành đề ra. V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG 1. Kết luận Sau khi xây dựng và tiến hành thử nghiệm tại nhóm lớp tôi nhận thấy: Khả năng nhận biết tập nói của trẻ ở lớp tôi tăng lên rõ rệt trẻ có thể nói đủ câu, rỏ ràng, mạch lạc không còn trẻ nói ngọng, trẻ biết sử dụng từ ngữ một cách chính xác và có nghĩa đủ ý. Có khả năng ứng dụng và trải nghiệm vào thực tế. Trẻ hứng thú tiếp thu bài học mạnh dạn, tự tin trả
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_nang_cao_hoat_dong_nhan_b.doc