Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Biện pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức và phương pháp về “ dạy học lấy trẻ làm trung tâm”
Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào bản thân mỗi giáo viên do đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định mà các văn kiện của Đảng và Nhà nước đều nêu rõ trong chỉ thị 40/CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư TW Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Người thầy cần giỏi về chuyên môn, đồng thời lại phải tốt về nhân cách mới thực hiện được nhiệm vụ của mình, thực sự là những “Kỹ sư tâm hồn”.
Do vậy việc bồi dưỡng về nhận thức và chuyên môn của bản thân mỗi giáo viên là một việc làm vô cùng cần thiết giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn trang bị cho giáo viên những hiểu biết, các kiến thức về chuyên môn giúp giáo viên chủ động, tự tin trong quá trình tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
Từ nhận thức về ý nghĩa của việc tự học tự bồi dưỡng, nên bản thân tôi luôn tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng chuyên môn do Phòng GD&ĐT tổ chức, các buổi sinh hoạt chuyên môn tại nhà trường, lắng nghe và ghi chép một cách nghiêm túc, mạnh dạn trao đổi với giảng viên, CBQL các trường những vấn đề còn chưa rõ, chưa hiểu, những vấn đề mà tôi quan tâm về đổi mới phương pháp giảng dạy.
Xác định tự học, tự nghiên cứu tài liệu cũng là một việc làm không thể thiếu được trong việc nâng cao nghiệp vụ của giáo viên nên tôi đã tìm kiếm những tài liệu, sách vở về đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy trẻ làm trung tâm, kỹ năng nghiệp vụ của giáo viên và tự đọc, tự nghiên cứu để rút ra được những vấn đề cần thiết đối với giáo viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy.
Dự giờ thao giảng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên, qua dự giờ thao giảng cả người dạy và người dự đều rút ra được những kinh nghiệm về chuyên môn cho mình. Để giúp bản thân hiểu sâu sắc vấn đề đổi mới phương pháp và đối chiếu giữa kiến thức sách vở với thực tiễn tôi đã mạnh dạn xây dựng một số hoạt động và đăng ký dạy thao giảng để CBQL nhà trường và đồng nghiệp dự giờ, thông qua các tiết mẫu, tôi được nghe đồng nghiệp thảo luận, góp ý rút kinh nghiệm, được nghe các đồng chí CBQL phân tích cụ thể các tiết dạy đó là: tiết dạy đã đổi mới chưa? đổi mới ở chỗ nào? đã lấy trẻ làm trung tâm chưa, có gì khác so với cách dạy khác và tiết dạy đó thực sự mang lại hiệu quả chưa?. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy và việc vận dụng lấy trẻ làm trung tâm vào quá trình giảng dạy.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
mức độ nhận thức, hiệu quả sau mỗi tiết dạy, sự hứng thú của học sinh, kết quả cụ thể cho thấy: Đa số trẻ không hứng thú tham gia vào hoạt động, nắm kiến thức, kỹ năng của từng vấn đề hời hợt, không rõ ràng, cụ thể: ( Tổng số trẻ là 31) STT Khả năng hứng thú và kiến thức, kỹ năng đạt được sau mỗi tiết học Kết quả Số lượng Tỷ lệ % 1 Loại tốt 7 22,5 2 Loại khá 8 26 3 Loại TB 9 29 4 Loại yếu 7 22,5 * Nguyên nhân của thực trạng : - Lập kế hoạch hoạt động ngày còn theo thói quen cũ, chưa phát huy tích cực của trẻ, chưa tìm hiểu, chưa đánh giá được vốn kiến thức, kỹ năng của trẻ. - Đánh giá trẻ hàng ngày còn chung chung, chưa thể hiện việc quan sát các biểu hiện, các hành vi cũng như việc tiếp thu kiến thức, kĩ năng của trẻ một cách rõ nét. - Ngoài ra, giáo viên chưa mạnh dạn, tự tin để độc lập xây dựng kế hoạch, nên chưa thể hiện nét đặc trưng riêng của mỗi cá nhân, chưa tạo được hứng thú và chưa phát huy được tính tích cực của trẻ. Biện pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức và phương pháp về “ dạy học lấy trẻ làm trung tâm” Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào bản thân mỗi giáo viên do đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định mà các văn kiện của Đảng và Nhà nước đều nêu rõ trong chỉ thị 40/CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư TW Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Người thầy cần giỏi về chuyên môn, đồng thời lại phải tốt về nhân cách mới thực hiện được nhiệm vụ của mình, thực sự là những “Kỹ sư tâm hồn”. Do vậy việc bồi dưỡng về nhận thức và chuyên môn của bản thân mỗi giáo viên là một việc làm vô cùng cần thiết giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn trang bị cho giáo viên những hiểu biết, các kiến thức về chuyên môn giúp giáo viên chủ động, tự tin trong quá trình tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Từ nhận thức về ý nghĩa của việc tự học tự bồi dưỡng, nên bản thân tôi luôn tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng chuyên môn do Phòng GD&ĐT tổ chức, các buổi sinh hoạt chuyên môn tại nhà trường, lắng nghe và ghi chép một cách nghiêm túc, mạnh dạn trao đổi với giảng viên, CBQL các trường những vấn đề còn chưa rõ, chưa hiểu, những vấn đề mà tôi quan tâm về đổi mới phương pháp giảng dạy. Xác định tự học, tự nghiên cứu tài liệu cũng là một việc làm không thể thiếu được trong việc nâng cao nghiệp vụ của giáo viên nên tôi đã tìm kiếm những tài liệu, sách vở về đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy trẻ làm trung tâm, kỹ năng nghiệp vụ của giáo viên và tự đọc, tự nghiên cứu để rút ra được những vấn đề cần thiết đối với giáo viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Dự giờ thao giảng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên, qua dự giờ thao giảng cả người dạy và người dự đều rút ra được những kinh nghiệm về chuyên môn cho mình. Để giúp bản thân hiểu sâu sắc vấn đề đổi mới phương pháp và đối chiếu giữa kiến thức sách vở với thực tiễn tôi đã mạnh dạn xây dựng một số hoạt động và đăng ký dạy thao giảng để CBQL nhà trường và đồng nghiệp dự giờ, thông qua các tiết mẫu, tôi được nghe đồng nghiệp thảo luận, góp ý rút kinh nghiệm, được nghe các đồng chí CBQL phân tích cụ thể các tiết dạy đó là: tiết dạy đã đổi mới chưa? đổi mới ở chỗ nào? đã lấy trẻ làm trung tâm chưa, có gì khác so với cách dạy khác và tiết dạy đó thực sự mang lại hiệu quả chưa?... Từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy và việc vận dụng lấy trẻ làm trung tâm vào quá trình giảng dạy. Hình ảnh: Tham gia lớp bồi dưỡng kỹ năng sư pạm. Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm Xây dựng kế hoạch là một biện pháp quan trọng trong quá trình thực hiện những việc cần làm của người giáo viên. Việc lập kế hoạch giáo dục giúp cho giáo viên thực hiện mục tiêu giáo dục đầy đủ, có hệ thống, giúp giáo viên dự kiến trước nội dung, thời gian để tổ chức các hoạt động một cách hiệu quả. Kế hoạch là cơ sở để thống nhất mọi hoạt động. Giáo viên phải hình dung được rõ ràng công việc sắp phải làm và hoàn toàn chủ động công việc trong nhóm, lớp, đồng thời đưa các hoạt động vào nề nếp. Giáo viên cần lập kế hoạch thực hiện lấy trẻ làm trung tâm để xác định các nội dung phù hợp nhất đối với trẻ trong nhóm lớp mình. Qua đó, tôi có điều kiện quan tâm đến trẻ hơn, biết những mặt mạnh, tiến bộ của trẻ để có những tác động phù hợp. Để xây dựng được kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trước hết cần hiểu rõ: * Kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là: - Kế hoạch giáo dục căn cứ vào trẻ nghĩa là căn cứ khả năng, nhu cầu học tập, kinh nghiệm sống của trẻ để xác định mục tiêu, cụ thể nội dung. - Tổ chức hoạt động luôn đặt trẻ vào trung tâm của quá trình giáo dục, có nghĩa là tạo mọi cơ hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động: + Trải nghiệm: trẻ được học qua thực tế, qua việc làm, qua khám phá tìm tòi + Giao tiếp: Chia sẻ với bạn và học từ mọi người + Suy ngẫm: suy nghĩ và vận dụng những điều đã lĩnh hội được vào việc giải quyết các tình huống. + Trao đổi: diễn đạt và chia sẻ suy nghĩ và mong muốn Giáo viên chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ được chiếm lĩnh kiến thức. Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được xem như một quan điểm dạy học chi phối cả mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và cả quan điểm dạy học. Do vậy, để xây dựng được kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm một cách hiệu quả, tôi đã quan tâm và thực hiện các việc làm sau: * Xác định mục tiêu: - Xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm được thể hiện ngay từ việc xác định mục tiêu và cách viết mục tiêu. Vì vậy khi xác định mục tiêu trong kế hoạch bản thân tôi đã căn cứ vào những yếu tố sau: + Khả năng tiếp thu kiến thức, nhu cầu học tập khám phá, sở thích của từng trẻ trong lớp tôi phụ trách, để có được những kết quả trên tôi đã lựa chọn từ việc theo dõi, quan sát trẻ hàng ngày, hằng tuần, hằng tháng + Nội dung giáo dục cho từng độ tuổi (trong chương trình giáo dục mầm non) Ngoài ra, tôi căn cứ vào khả năng, hứng thú của trẻ,; điều kiện nhóm lớp; nhu cầu, mong muốn của cha mẹ trẻ muốn trẻ có những kiến thức, kỹ năng nào để phù hợp với điều kiện sống của trẻ trong cộng đồng để xác định mục tiêu phù hợp khả năng, kinh nghiệm sống của trẻ, đáp ứng được yêu cầu của chương trình, phù hợp vói vùng miền, với trường lớp của tôi. - Việc viết mục tiêu luôn tôi luôn hướng vào trẻ, nghĩa là trẻ sẽ làm được gì? sẽ như thế nào? sau một năm học (kế hoạch năm), sau 1 tháng (kế hoạch tháng) và sau một tuần, ngày (kế hoạch giáo dục tuần, ngày). Do đó mục tiêu giáo dục nhất là mục tiêu cho một bài (một nội dung) giáo viên đặt ra cần cụ thể, đo được, đạt được, thực tế và có giới hạn về thời gian để có thể dễ dàng xác định trong một khoảng thời gian nhất định mục tiêu đã đạt được chưa. Ví dụ: Mục tiêu giáo dục lĩnh vực Phát triển nhận thức Mục tiêu GD năm Mục tiêu tháng Mục tiêu giáo dục ngày Phát triển nhận thức Tháng 4 (chủ đề Hiện tượng tự nhiên) Hoạt động ngoài trời: Quan sát hiện tượng đá tan ra thành nước Trẻ có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý, ghi nhớ có chủ định Quan sát, phán đoán một số hiện tượng tự nhiên đơn giản (trời sắp mưa, trời nắng to..) - Kiến thức: - Giúp trẻ nhận biết được sự tan ra của đá khi nhiệt độ ấm lên ( quá trình đá tan thành nước ). - Kỹ năng: quan sát, phán đoán hiện tượng đá tan ra thành nước, khả năng so sánh và đưa ra kết luận - Thái độ: có ý thức bảo vệ cơ thể: không nên uống nhiều nước đá và tránh xa nước sôi nóng. * Lựa chọn nội dung giáo dục: - Khi mục tiêu giáo dục đã được xác định tôi dựa vào mục tiêu để cụ thể hóa nội dung của từng lĩnh vực cho từng độ tuổi quy định trong chương trình vì nội dung giáo dục trong chương trình là những vấn đề cốt lõi, cơ bản. Ví dụ nội dung trong lĩnh vực phát triển nhận thức - phần khám phá khoa học: đặc điểm, công dụng và cách sử dụng đồ dùng, đồ chơi; so sánh sự khác nhau, giống nhau của 2,3 đồ dùng, đồ chơi; đặc điểm công dụng một số phương tiện giao thông ... dựa vào mục tiêu giáo viên cụ thể nội dung: đặc điểm, công dụng và cách sử dụng đồ dùng hay đồ chơi nào? So sánh sự khác nhau và giống nhau thì phải xác định so sánh đồ dùng/đồ chơi nào với nhau? Đặc điểm, công dụng của phương tiện giao thông nào? xe máy hay ô tô. - Những nội dung giáo dục trong kế hoạch là những nội dung cụ thể, trẻ muốn biết, gẫn gũi với trẻ, phù hợp với vùng, miền. - Mục tiêu và nội dung liên quan với nhau do đó có mục tiêu thì phải có nội dung. Một mục tiêu có thể có 2-3 nội dung * Lựa chọn hoạt động giáo dục. - Theo Chương trình giáo dục mầm non, hoạt động giáo dục gồm: Hoạt động chơi, hoạt động học, hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân, hoạt động lao động. - Tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thì + Người giáo viên là người hướng dẫn, khuyến kích, gợi mở, hỗ trợ và tạo cơ hội nhiều nhất cho trẻ được hoạt động, được trao đổi chia sẻ trình bày ý kiến của mình. Đồng thời giáo viên phải quan sát để đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá qua những câu hỏi thắc mắc của trẻ. + Trẻ luôn tích cực, chủ động tham gia các hoạt động, thích làm việc theo cặp, theo nhóm nhóm + Phương pháp, đồ dùng sử dụng, hình thức tổ chức phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ để kích thích sự tìm tòi, phám phá của trẻ. Chú trọng cho trẻ được trải nghiệm, giao tiếp và trình báy ý kiến Quan tâm đến hệ thống câu hỏi Có hai dạng câu hỏi chính: Câu hỏi đóng và câu hỏi mở: + Loại câu hỏi đóng: câu trả lời là có hoặc không hoặc chỉ có một câu trả lời đúng duy nhất. Chức năng của loại câu hỏi này thường dùng để đánh giá ở mức độ ghi nhớ thông tin, đòi hỏi tư duy rất ít. Loại câu hỏi này thường dùng trong phần kết luận hoặc giới thiệu bài để kiểm tra xem trẻ đã hiểu nhiệm vụ và hướng dẫn cần làm trong phần phát triển bài + Câu hỏi mở là loại câu hỏi có nhiều đáp án cho trả lời. Câu hỏi này đòi hỏi tư duy nhiều thường dùng trong phần giới thiệu và phát triển bài Câu hỏi tốt tạo ra một thách thức về trí tuệ, tìm kiếm hiểu biết và tạo hứng thú cho trẻ. Để có được câu hỏi tốt bản thân tôi đã làm như sau: Chú ý đến mục đích của câu hỏi: hỏi để làm gì? Để hướng dẫn, gợi mở hay để kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu, hỏi cái gì? Câu hỏi phải phù hợp với trình độ, khả năng để trẻ có thể trả lời được và cố gắng để trả lời. Câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Phân bổ câu hỏi cho tất cả các đối tượng trẻ: trẻ nhút nhát đến trẻ tích cực. - Đặt ít câu hỏi hơn, nhưng câu hỏi phải khiến trẻ suy nghĩ, không hỏi tràn lan. - Dành thời gian để trẻ suy nghĩ trả lời. - Không nên vội đánh giá, hãy động viên, khuyến khích để nhận được câu trả lời tốt hơn từ trẻ. - Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi. - Trân trọng câu hỏi và câu trả lời của trẻ. Ví dụ 1 số câu hỏi mở kích thích trẻ suy nghĩ: * Con nghĩ thể nào? * Làm sao con biết? * Tại sao con lại nghĩ như vậy? * Nếu.. thì sao? Nếu không thì sao? * Theo con thì điều gì/cái gì sẽ xảy ra tiếp theo? Nói tóm lại khi xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm là việc tôi đặt ra các câu hỏi và tìm lời giải đáp để có một kế hoạch hoàn chỉnh phù hợp với trẻ. 1. Hiện tại trình độ của trẻ như thế nào ? Khảo sát, tìm hiểu trẻ. 2. Trẻ cần học gì tiếp theo ? Chọn mục tiêu. 3. Trẻ cần làm gì để đạt những mục tiêu, yêu cầu này ? Dự kiến các công việc / hoạt động cụ thể của trẻ cho trẻ trải nghiệm nhằm vào các mục tiêu đã đặt ra. 4. Những học liệu nào được dùng để thực hiện kế hoạch này ? Chọn học liệu, chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi cho trẻ và cô. Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Đổi mới phương pháp giảng dạy là quá trình phối hợp linh hoạt và hợp lý những kinh nghiệm, thành tựu sử dụng, điều kiện cơ sở vật chất và cải tiến các phương pháp dạy học của đội ngũ giáo viên. Đổỉ mới phương pháp nhằm tích cực hoá các hoạt động dạy và học, khuyến khích giáo viên chủ động, sáng tạo, dạy học tập trung vào trẻ, lấy trẻ làm trung tâm để phát triển mọi khả năng của trẻ, tổ chức hướng dẫn trẻ học tập bằng cách tự phát hiện khả năng của mình và có niềm tin trong lao động, học tập. Với những hiểu biết của bản thân về đổi mới phương pháp giảng dạy tôi đã tự đặt ra những yêu cầu khi tổ chức một giờ hoạt động như sau: Đối với giáo viên. - Nghiên cứu kỹ bài soạn và phân tích sư phạm bài dạy cụ thể là: - Soạn kế hoạch giáo dục, xác định trọng tâm kiến thức, kỹ năng bài học và các hình thức tổ chức hoạt động trong tiết dạy - Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, những nội dung khó, mục đích giải quyết ở lớp. Dự kiến những tình huống ở trẻ và cách khắc phục - Chọn hình thức tổ chức tiết học phù hợp với điều kiện CSVC của lớp phù hợp với đề tài dạy và lĩnh vực đã chọn - Để tổ chức một tiết dạy phải tuỳ nội dung và mục đích cụ thể của bài dạy để xác định cách tổ chức hoạt động cho trẻ làm thế nào để có kết quả cao nhất VD: Nếu mục đích của bài dạy chủ yếu rèn kỹ năng thì coi trọng cách học cá nhân của trẻ. - Tôi thực hiện việc đổi mới phương pháp lấy trẻ làm trung tâm không có nghĩa là tôi loại bỏ hoàn toàn phương pháp cũ mà về cơ bản vẫn phải tuân thủ các bước trong suốt tiến trình của tiết học, vẫn phải dựa trên cơ sở phương pháp dạy đặc trưng các bộ môn. Đổi mới phương pháp là cách học “ Lấy trẻ làm trung tâm” dưa trên sự hiểu biết, hứng thú nhu cầu của trẻ mà ta đưa ra nội dung bài dạy, kiến thức sao cho phù hợp với trẻ. Hình thức tổ chức tiết học đa dạng, phong phú tuỳ vào sự sáng tạo của giáo viên để tiết học trở lên nhẹ nhàng, không gò bó, áp đặt trẻ theo đúng tính chất: “ Học mà chơi, chơi mà học” của trẻ mầm non. Đối với trẻ. - Tôi khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động cùng cô, giúp trẻ tự tin trong giao tiếp, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ, tạo tâm thế thoải mái cho trẻ khi bước vào giờ hoạt động. Giúp trẻ chủ động, tích cực trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, tạo cơ hội cho tất cả các trẻ đều được tham gia vào quá trình nhận thức, tìm tòi, khám phá tri thức, trẻ được thể hiện sự hiểu biết, suy nghĩ của trẻ thông qua các hoạt động cụ thể. Hình ảnh: Trẻ tham gia một số giờ học. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm Trong giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, thì môi trường học tập có ý nghĩa vụ cùng quan trọng đối với việc học tập và tiếp thu kiến thức của trẻ. Trẻ em vốn rất hiếu kỳ, chúng tò mò mong muốn được khám phá tất cả mọi vật xung quanh chúng. Những hình ảnh, những ấn tượng mà trẻ thu nhận được trong những năm tháng tuổi thơ sẽ hằn sâu trong trí nhớ suốt cả cuộc đời của trẻ. Những điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển sau này của trẻ. Chính vì vậy tôi luôn tâm niệm: Sẽ trang bị cho trẻ một thế giới tự nhiên, một môi trường học tập tốt nhất ở ngay tại khu vực lớp và trường của trẻ. Trước hết tôi làm đẹp môi trường lớp học từ cách bố trí, sắp xếptrong lớp, trưng bày đồ dùng, đồ chơi sao cho hấp dẫn đẹp mắt mà vẫn gọn gàng ngăn nắp. Xây dựng các góc hoạt động khác nhau trong lớp nhằm tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ được nhiều hơn, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng hơn .Giúp trẻ tìm hiểu và khám phá cái mới, hoạt động với đồ vật và rèn luyện kỹ năng. - Trong lớp tôi đã bố trí các góc như sau: Góc yên tĩnh xa góc hoạt động ồn ào Ví dụ: Góc Hoạt động với đồ vật và góc bé chơi vận động ở gần nhau và xa góc sách, góc chơi bế em, góc bé chơi với hình và màu gần góc bé thực hành kỹ năng sống, góc thiên nhiên ở ngoài hiên.... - Các góc có khoảng rộng, cách nhau hợp lý để bảo đảm an toàn và vận động của trẻ. - Tạo ranh giới giữa các góc hoạt động Ví dụ : Sử dụng giá dựng đồ chơi quay lại tạo thành ranh giới cho góc chơi. Ranh giới ở các góc không che tầm nhìn của trẻ và không cản việc quan sát của giáo viên - Thay đổi vị trí các góc sau mỗi chủ đề để tạo cảm giác mới lạ, kích thích hứng thú của trẻ. - Đặt tên các góc phải đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với nội dung từng chủ đề đang thực hiện. Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Gia đình” góc sách có thể đặt “ Thư viện của gia đình bé” nhưng khi sang chủ đề “ thế giới thực vật” góc sách có thể đặt “ Thư viện của các loại cây”.. - Trang trí góc trưng bày sản phẩm của trẻ: Tôi xắp xếp vị trí đủ rộng, dễ nhìn để làm góc trưng bày sản phẩm của trẻ. Có hình ảnh minh hoạ ngộ nghĩnh, tên gọi gần gũi, hấp dẫn trẻ VD: Họa sỹ tý hon, hoặc Ai khéo tay, Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt, kể truyện theo tranh, gắn hình nhân vật... Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem, tôi sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô hoa lá ép khô, các loại hạt Có ngắn nhãn mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhận thấy, trẻ được chơi và làm được những sản phẩm từ những dồ chơi ấy. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ hến, ốc trai, sò vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa dễ kiếm. Các tranh, lô tô đều được phân loại để ở giá vừa dễ lấy, dễ tìm. Ví dụ : Tôi phân loại lô tô : - Lô tô con vật xếp vào một ô . - Lô tô các loại quả xếp vào một ô Khi trang trí lớp bao giờ tôi cũng chú ý tới những mảng tường lớn trong góc chơi, hoặc những mảng trung tâm mà trẻ thường hoạt động để trang trí. Các mảng này vừa được sử dụng để trang trí vừa được gắn những hình ảnh rất ngộ nghĩnh, sinh động. Từ những nguyên vật liệu đơn giản, dễ kiếm tôi đã cắt, vẽ dán trang trí những hình ảnh ngộ nghĩnh, có hiệu quả giáo dục. Khu vực ngoài hiên tôi xây dựng góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây cối: Nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước, tìm hiểu về thiên nhiên, các tranh ảnh về thế giới tự nhiên. Ở nơi đó có những chậu hoa đua nở bốn mùa, có những hạt lạc, hạt đỗ ngày đêm đội đất, nhú mầm. Ở chính nơi này các bé được đắm mình thực sự trong thế giới tự nhiên của trẻ, khiến cho trẻ bị hấp dẫn bị thu hút từ đó trẻ đã có thể cảm nhận sự vật hiện tượng, được trải nghệm chúng một cách tự nhiên nhất. Ngoài ra trẻ còn được chơi một số trò chơi dân gian quen thuộc, gần gũi như cắp cua bỏ giỏ, dung dăng dung dẻ, ô ăn quan... Tất cả những điều đó như tạc vào tâm hồn trẻ cả một thế giới tự nhiên sống động, tươi mát, trong trẻo. Để trẻ đắm mình trong thế giới tự nhiên để trầm trồ, ngắm nghía, thậm chí là đưa tay để sờ, để cảm nhận. Sự vui tươi, hứng khởi đã lộ rõ trên khuôn mặt trẻ. Bởi chính cô giáo chúng đã mang đến cho chúng cả một thế giới thiên nhiên, thế giới bạn bè đầy thân thiện. Biện pháp 5: Làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi. Đồ chơi là người bạn không thể thiếu trong các trò chơi của trẻ và là nguồn vui của trẻ thơ, là những phương tiện trẻ dùng để vui chơi, là những đồ vật cụ thể giúp trẻ cầm, nắm dễ dànggiúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh, làm quen với những đặc điểm, tính chất của nhiều đồ vật khác nhau , biết được công dụng của chúng trong sinh hoạt và trong lao động của con người, còn là phương tiện giúp trẻ phát hiện ra những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội và dần dần biết gia nhập vào những mối quan hệ đó. Đồ chơi còn có tác dụng thúc đẩy, hình thành và phát triển các chức năng tâm lý, góp phần hình thành nhân cách ở trẻ trong đó việc phát triển tình cảm thẩm mỹ rất quan trọng. Vai trò và ý nghĩa của đồ chơi thật to lớn và sâu sắc, là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu đối với cuộc sống tinh thần đối với mỗi đứa trẻ. Đồ chơi được lựa chọn đúng đắn sẽ thúc đẩy hoạt động trí tuệ của trẻ em. Có những đồ chơi giúp phát triển các cơ quan thụ cảm, những đồ chơi mô phỏng các đồ vật giúp trẻ nắm được hình dáng, cấu tạo, công dụng và phương thức sử dụng. Có những đồ chơi thôi thúc trẻ tập nói, phát triển ngôn ngữ và làm phong phú thêm vốn từ. Những đồ chơi lắp ráp hay phương tiện giao thông giúp trẻ rèn luyện các thao tác trí tuệ như phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại,...làm phát triển tư duy ở trẻ thơ một cách hoàn thiện. Chính vì thế mà đồ dùng cần phải đẹp, phong phú, sáng tạo, mới mẻ, đảm bảo sự an toàn tuyệt đối, dễ sử dụng thì tiết học sẽ đạt được 50% hiệu quả của sự thành công. Đặc biệt là những loại đồ dùng tự làm, luôn thực tế, sinh động và bám sát với yêu cầu của tiết học nên chắc chắn sẽ hấp dẫn trẻ hơn so với những loại đồ dùng mua sẵn. Hiểu được điều này nên tôi đã mang hết khả năng của mình để làm ra những loại đồ dùng, đồ chơi
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_giao_du.doc