Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học
Qua các năm thực hiện chuyên đề cho trẻ làm quen TPVH- LQCV, giáo viên đã thực sự có nhiều đầu tư vào việc nâng cao các phương pháp, hình thức cho trẻ LQTPVH đã chú trọng nhiều đến việc đọc, kể diễn cảm và dạy trẻ kể lại chuyện, kể sáng tạo dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Song việc dạy trẻ đóng kịch còn còn có nhiều hạn chế.
Chưa có sáng tạo trong việc chuyển thể từ chuyện kể sang kịch bản sân khấu, không tạo ra được tính kịch - sự kiện - sự biến, lời thoại còn dài dòng khó hiểu, giáo viên còn nặng nề trong việc dẫn chuyện làm cho kịch bản trở nên rời rạc - kém hấp dẫn.
Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên khả năng còn cảm nhận các tác phẩm văn thơ chuyện còn hạn chế giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, minh họa chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt sáng tạo kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao.
Hầu hết các vở kịch còn thiếu các yếu tố phụ trợ như: Âm thanh, cảnh trí, trang phục làm cho hoạt động đóng kịch không thu hút được sự chú ý của trẻ.
Giáo viên chưa chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng kịch cho trẻ - nếu có thì chủ yếu là trong tiết học. Còn trong các giờ chơi, các buổi sinh hoạt thì hầu như chưa có.
Đối với nghành giáo dục yêu cầu trẻ “học mà chơi, chơi mà học” thông qua các tác phẩm văn học một cách nhẹ nhàng, gần gũi hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học
Dạy trẻ nói đủ câu, cô nói trước và cho trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho trẻ khác giúp đỡ các bạn. Trong giờ học cô luôn chú ý bao quát chung để tìm hiểu đặc điểm của từng trẻ để gần gũi động viên trẻ giúp đỡ những trẻ còn yếu kém, đưa trẻ vào hoạt động với các bạn có nề nếp hơn, hứng thú hơn. Ngoài những hoạt động chung của tiết học Làm quen văn học tôi luôn tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc và cũng cố tích lũy những biểu tượng mà cô đã cung cấp cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi như dạo chơi ngoài trời, trong các môn học khác, trong vui chơi đồng thời đặt nền móng cho giờ học sau đặt kết quả cao. Trong lớp học có bảng Làm quen văn học tôi thường gắn các hình ảnh của nội dung chuyện hoặc bài thơ theo từng giai đoạn để trẻ dễ nhận đó là câu chuyện gí? Bài thơ nào? Và trẻ có thể đọc, kể với nhau. Bản thân tôi luôn học hỏi các đồng nghiệp và thực hành, kiến tập các chuyên đề ở trường, huyện và tự bồi dưỡng mình để có thêm nhiều kinh nghiệm. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1) Cơ sở lý luận: Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt gãy gọn biết sữ dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ. Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn em nhỏ. Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong trương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Ví vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng trong đỗi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non. Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú dối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ. Kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyen5 theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Trong mỗi tác phẩm văn học, thề giới mới của cuộc sống thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vủ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố,Qua tác phẩm văn học, trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn tình cô cháu,Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học có thể cần đề cặp đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần. Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ, chuyện. Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm còn cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn học như: Thơ, chuyện, nhân vật, hình ảnh, giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cấn giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật; giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật; Giữa không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn học. Chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi trẻ phân biệt quan hệ chính phụ trong truyện mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận ra tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm của tác phẩm. Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ nhận ra ngôn ngữ đời thường (khẫu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Qua tác phẩn văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện của ngôn ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt. Khi cho trẻ làm quen với tác phẩn văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỷ năng đọc và kể tác phẩm. 2) Giả thiết khoa học: Sức mạnh của tác phẩm văn học thật vô cùng to lớn. Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm, bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật đọc và kể chuyện văn học, cô giáo ở trường Mầm non sẽ hướng trẻ vào những vẽ đẹp nội dung và nghệ thuật tác phẩm, gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ dân tộc. Cấn phải dạy trẻ biết lắng mình với tác phẩm văn học, hòa vào cõi mộng mơ, trau rồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế thoáng qua, bất chợt đến từ các nguồn sống khác, nghĩa là dạy trẻ tập trung rung động, cái rung động của mính chứ không phải của ngưới khác. Tác phẩm văn học thể hiện hiện thực cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật. Bằng sức mạnh của tính hình tượng, sự biểu cảm của ngôn ngử, những hình tượng con người, con vật, bức tranh thiên nhiên được vẽ nên bằng ngôn ngữ đã tác động mạnh mẽ đến trẻ em. Ấn tượng trẻ thu nhận được từ tác phẩm văn học khi nghe đọc, kể tác phẩm phụ thuộc vào trình độ phát triển nhận thức thẩm mỹ của trẻ, vào khả năng cảm nhận văn học trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức nghệ thuật tác phẩm. Chúng ta đều nhận thấy rằng, trẻ mẫu giáo có khả năng cảm nhận văn học nghệ thuật trong thể hoàn chỉnh, thống nhất giửa nội dung và hình thức tác phẩm bằng cách nghe người lớn đọc, kể tác phẩm. Trẻ em nói chung và đặc biệt trẻ 2 tuổi rất thích những tác phẩm vui nhộn, dễ chán những bài văn buồn và gây sự sợ hãi. Tuy nhiên phản ứng của trẻ trước những cảnh hoặc chi tiết chứa đựng sự căng thẳng phụ thuộc vào cả cách thể hiện của người lớn khi đọc, kể tác phẩm lẫn đặc điểm tâm lý cá nhân cũng như sự từng trải của trẻ. Trẻ 3-4 tuổi trong khi nghe kể những câu chuyện có tính hài hước đã biểu hiện hành động điệu bộ cho thấy chúng hiểu không chỉ nội dung mà cả sự bất bình thường của những tình tiết có tính hài hước của tác phẩm. Qua quan sát, người ta nhận thấy trẻ ở độ tuổi này rất thích xem chèo và chúng khoái trí cười theo khi xuất hiện những nói hóm hỉnh, sâu sắc của các nhân vật hề. Người lớn thấy cảnh đó chắc là ngạc nhiên vì sao một cô, cậu bé lại hiểu được những truyện khôi hài, khó hiểu dến như vậy. Nhưng rõ ràng là các em có khả năng bẩm sinh hiểu được sự hài hước. Đối với trẻ ở tuổi mẩu giáo nhỡ (4-5 tuổi), giáo viên cần chọn và đọc cho trẻ những tác phẩm có nội dung và hình thức nghệ thuật phức tạp hơn. Trên cơ sở những gì trẻ tiếp thu được ở giai đoạn trước, ở chúng sẽ tạo ra khả năng xâm nhập sâu hơn vào nội dung tác phẩm khiến chúng xác định thái độ đối với các nhân vật, sự kiện phản ánh trong tác phẩm. Đối với trẻ mẫu giáo (5-6 tuổi), ở giai đoạn này, cảm nhận thẫm mĩ đã có một bước phát triển trong tiếp nhận văn học. Sự tiếp nhận tác phẩm đầy đủ hoàn thiện hơn, biểu hiện trước tiên là sự hiểu biết những câu chuyện cổ tích, bài thơ, những đoạn văn xuôi hay và và sự làm giàu tình cảm qua quá trình tích lũy hình tượng nghệ thuật. Đối với trẻ mẫu giáo lớn thì sự quan tâm tới tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ hiểu được nội dung tác phẩm, các nhân vật trong tác phẩm trở nên gần gũi dễ hiểu hơn. Sự cảm thông với nhân vật, sự lo lắng cho số phận của nhân vật của trẻ đã mang đặc điểm cá tính hơn. Sự hồi hộp, lo lắng này của trẻ em đã nếm trải ngay cả trong sự kiện đời sống hàng ngày. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhà sư phạm cần hướng trẻ đến vẻ đẹp mang “bản chất người” của hình tượng văn học. Vẻ đẹp của tính người trong cá nhân đơn nhất ở văn học trẻ em có thể nhận ra từ cách cư xử tế nhị, nhân hậu giữa đồng loại (bác gấu đen và hai chú thỏ), trong sự thành thực đối với bản thân và người khác, trong cử chỉ biết ơn Cẩn dạy trẻ nghệ thuật tự đặt mình vào chổ đứng và tình thế của người khác như hiểu được sự cực nhọc mẹ, nỗi ưu tư của cha, hiểu sự cô đơn nghèo khó của bạn bè, nỗi bất hạnh của con người, rồi tận tình làm nhẹ vơi đi gánh nặng đó. Từ những vẻ đẹp nhỏ nhặt thưởng ngày trong cư xử mang “tính người” ấy sẽ nãy sinh ra những hành động cao thượng nhân ái vì con người. Làm quen với tác phẩm văn học còn bao hàm cong việc cô giáo tổ chức để trẻ hứng thú bước vào hoạt động văn học nghệ thuật một cách tự nhiên như đọc thơ diễn cãm, kể lại truyện một cách sáng tạo, hóa thân vào các vai diễn trong trò chơi đóng kịchĐể trẻ trở thành một cách chủ thể hoạt động văn học nghệ thuật một cách tích cực, sáng tạo. Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tuy mới chỉ là như vậy nhưng nó là việc làm cao cả, có ý nghĩa lớn trog việc hình thành ở trẻ những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của con người, đặc biệt là tình yêu đối với ngôn ngữ nghệ thuật. Bản chất giàu xúc cảm và tình cảm là nét tâm lý nổi bật của trẻ thơ khiến trẻ nhanh tróng bộc lộ cảm xúc, tình cảm khi nghe đọc và nhận thấy sự thể hiện của cô giáo. Khả năng tự chủ, tự vệ của trẻ rất mong manh cho nên nhũng hình tượng nghệ thuật tác động đến trẻ vô cùng mạnh mẽ. Tính dễ xúc cảm có thể làm có thể kêu lên trước một cảnh tượng thương tâm nào đó; Hay mọi hành động của nhân vật, hình ảnh, tiếng nói có tính hài hước đều gây được sự hứng khởi. Chẳng hạn khi cô giáo cho trẻ làm quen với truyện “Tấm cám”, những chi tiết thể hiện tiếng khóc của Tấm trong tác phẩm đều gây cho trẻ cảm xúc mạnh mẽ. Đó là tiếng khóc “nức nở” khi bị Cám lừa trút sạch giỏ cá, tôm; Lá tiếng “òa lên khóc” khi con bống người bạn thân, người bạn thân thiết bị mẹ con Cám làm thịt; là tiếng khóc “tức tưởi” lúc phải nhặt thóc với gạo, là nổi tủi thân tủi phận “Tấm bưng mặt khóc”. Trẻ thể hiện nỗi lo lắng, thương tâm với nhân vật. Khi cô kể đến đoạn Tấm thử hài, được về cung làm hoàng hậu, trẻ vui mừng, thốt lên phấn khởi Tiếp nhận của trẻ là tiếp nhận ngây thơ, triệt để.Trong tiếp nhận văn học trẻ thường vận dụng kinh nghiệm trực tiếp và nguyên hợp, không phân biệt sự khác nhau giửa chúng. Trẻ em không đòi hỏi lí lẽ mà đòi hỏi sự hợp lí về tình cảm trong khuôn khổ hạn hẹp của mình. Cho nên giáo viên khi giải thích cho trẻ cần nhất quán vá tạo dựng niếm tin. Với niếm tin ngây thơ trẻ em có tôn giáo của mình. Chúng luôn đứng về cái thiện, chia sẽ, bênh vực những nhân vật tốt, dũng cảm và cao cả , những nhân vật nhỏ bé yếu ớt cần được bảo vệ. Chẳng hạn khi cô giáo tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng kịch tác phẩm “chú Dê đen” trẻ rất thích nhân vật chú Dê đen và hứng thú gi nhớ đó là bởi trẻ tiếp nhận ngây thơ, khjong6 phân biệt thế giới nghệ thuật trong tác phẩm và hiện thực đời sống. Tiếp nhận văn học của trẻ em ít bị ràng buộc bởi lí trí và chứa đựng tưởng tượng mạnh mẽ. Ở trẻ em, tưởng tượng về cái có thật. Do vậy trẻ em rất dễ dễ bị cuốn hút bởi những hình tượng hoang đường kì vĩ, tác động mạnh vào trí tưởng tượng của các em như; Hình tượng cậu bé làng gióng vươn vai bỗng lớn thành một tráng sĩ, những chi tiết về sự hóa thân kì diệu của nhân vật,cô Tấm, phép màu kì lạ của “Quả Bầu tiên”, Như vậy trí tưởng tượng phát triển sớm ở trẻ mẫu giáo là một thứ của trời cho, có tính chất tiên nhiên, là tiền đề để cô giáo thực hiện tốt hoạt động đọc và kể tác phẩm. 3) Qúa trình thử nghiệm: Việc nghiên cứu và thử nghiệm các hình thức này được diễn ra song song trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đây là hình thức cơ bản cho trẻ làm quen với văn học. Các tác phẫm văn học cho trẻ làm quen trong hoạt động này thường nằm trong trương trình, có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Thời gian hoạt động này thường không nhiều. Vì vậy trpong giờ hoạt động này tôi sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung chuyện, nhớ chuyện, thuộc thơ và đọc kể diễn cảm. trong hoạt động này hình thức sử dụng đồ dùng trực quan rất có hiệu quả. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, mô hình, rối que, rối bóng, trang phục, sân khấu Ví dụ với bài thơ “Hoa kết trái” Chủ điểm thế giới thực vật * Hoạt động 1: Dạo chơi công viên Cô cháu mình cùng đi chơi công viên nhé! - giáo dục trẻ đi đúng luật lệ giao thông. - Cô và trẻ vừa đi vừa hát “hoa trong vườn” - A! ở đây có rất là nhiều loại hoa khoe sắc, c/c có muốn ngắm hoa không nào? - Cô chỉ vào từng loại hoa cho trẻ quan sát gọi tên và màu sắc của hoa. - Các loại hoa có vẽ đẹp khác nhau nhưng đều có ích lợi làm đẹp cảnh quang môi trường, và vì thế mọi người phải biết trồng hoa, chăm sóc hoa đó là việc làm BVMT. - Cô có một bài thơ nói về các loại hoa rất hay c/c hãy lắng nghe xem có những loại hoa gì nhé! * Hoạt động 2: Hoa gì đẹp thế - Cô đọc thơ lần 1 tại mô hình - Cô đọc thơ lần 2 cho trẻ xem tranh và giảng từ khó “tim tím, chói trang, đốm lửa, trắng tinh, hoa tươi” cho trẻ nhắc lại từ khó. - Bạn bướm thích đọc thơ nên bạn bướm cũng đến tham gia đọc thơ với lớp mình nè! - Cho các cháu đọc thơ theo tranh rời có chữ to. - Cô chỉ từ trong tranh cho trẻ đọc + Trẻ đọc thơ: - Cho cả lớp đọc hai lần - Cho hai tổ đọc nối tiếp - Cho trẻ đọc to đọc nhỏ. Cá nhân đọc + Đàm thoại: Trò chơi: Đố vui có thưởng - Hai đội sẽ thi đua lắc nhịp để trả lời câu hỏi, nếu đúng sẽ được một phần quà. - Caùc con thấy có những loại hoa nào trong bài thơ? - Hoa cà có màu gì? Hoa mướp có màu gì? - Hoa lựu có màu gì? Hoa vừng ntn? - Hoa đỗ làm sao? Hoa mận có màu gì? - Tác giả nhắc các bạn nhỏ điều gì? Vì sao các bạn nhỏ đừng nên hái hoa tươi? * GD: Các cháu đừng hái hoa vì hoa làm đẹp cho môi trường, hoa còn kết trái để có quả chín cho các con ăn nữa, các con phải biết chăm sóc cây để cây cho nhiều hoa thêm nữa. * Hoạt động 3: Trò chơi - TC: Hái hoa - Ôi có nhiều hoa nở quá các chú bướm tung tăng bay đi tìm hoa c/c hãy hái hoa tặng cho các chú bướm nha! - Để hái hoa được nhiều chúng ta sẽ thi đua nhé! - Cô sẽ chọn ra ba đội. Đội 1 hái hoa mang chữ chữ l Đội 2 hái hoa mang chữ chữ n Đội 3 hái hoa mang chữ chữ m - Nhận xét và đếm kết quả chơi của 3 đội. * KẾT THÚC: NX- TD - Khi giải thích từ khó tôi thường dẫn chứng bằng vật thật như từ “trắng tinh” tô đã cho trẻ quan sát hoa mận thật. Với từ “rung rinh” tôi đã cầm cành cây nhỏ lắc nhẹ để cho trẻ cảm nhận được sự lay nhẹ của cành cây. * Đối với tiết chuyện trình tự dạy cũng như tiết thơ và tôi thường xuyên cho trẻ tham gia đóng kịch. Với trẻ mầm non hoạt động chung chiếm một thời gian rất ngắn so với thời gian của các hoạt động khác. Do đó tôi đã tận dụng thời gian đón trẻ, trả trẻ, hoạt động ngoài giờ, hoạt động vui chơi hay trong hoạt động chuyển tiếp để giới thiệu hay ôn luyện các bài thơ, bài đồng dao, câu chuyện. 4) Hiệu quả mới Quan điểm giáo dục trẻ theo hướng đổi mới giáo viên là người hướng dẫn, tạo cơ hội cho trẻ hoạt động vui chơi tìm tòi khám phá. Trẻ hoạt động không bị áp đặt để phát huy năng lực bản thân, được trao đổi, được nhận xét nên trẻ trở nên năng động hơn. Sau khi thực hiện chuyên đề LQVH bản thân tôi không ngừng phấn đấu học tập, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp. Qua các tiết học trẻ rất hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập, ngôn ngữ của trẻ trở nên mạch lạc hơn so với trước đây. Kết quả Số lượng trẻ Khi chưa áp dụng hình thức đổi mới Sau khi áp dụng hình thức đỗi mới - Đọc diễn cảm 30 50% - 60% 70% - 80% - Thuộc nhiều, nhanh 30 70% - 75% 85% - 90% - Phát triển ngôn ngữ, diễn đạt tốt 30 65% - 70% 80% - 90% III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Kinh nghiệm cụ thể. Nhìn chung, trẻ em trước tuổi đến trường phổ thông có những đặc tính tâm lí như sau: Dể tiếp thu, dễ xúc cảm, hồn nhiên và dễ tin, tư duy mang tính chất cụ thể và biểu cảm. Những đặc tínhđó của lứa tuổi nhỏ đã giúp cho việc dạy học diễn ra rất dễ dàng. Tính hồn nhiên dễ tiếp thu, xúc cảm và tính cụ thể của tư duy các em đã tạo nên cơ sở tuyệt vời để phát triển trí tưởng tượng tái hiện và sáng tạo. Đặc tính này khiến cho chúng ta dễ dàng khiêu gợi những cảm xúc của các em, kích thích các em đọc một cach1thich1 thú những bài thơ những bài thơ mà các em đã được học. Trong bất kì trường hợp nào, cô giáo cũng cần phải biết lựa chọn những tác phẩm có yếu tố ngôn ngữ có tính biểu cảm, đồng thời phải làm cho chúng tiếp thu một cách dễ dàng tùy theo lứa tuổi. Các kỉ năng đọc diễn cảm vẫn cần được cũng cố và hoàn thiện trong suốt những năm ở trường mầm non. Không khí lớp học có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chính không khí chung của lớp học đã tạo ra hoàn cảnh thuận lợi cho việc đọc diễn cảm. Phân tích bằng diễn xuất đọc giáo viên phải sửa lổi đọc kịp thời và cho các cháu nhận xét, tập phê bình cách đọc của bạn. Việc sửa chữa những thiếu sót của các cháu còn phụ thuộc vào đặc điểm của giờ học. Điều đặc biệt quan trọng là phải chú ý đến cái mới, cái sáng tạo mà các cháu có được. Việc cho các cháu tự đánh giá mình đọc sẽ giúp các cháu tự điều chỉnh cách đọc của mình đạt đến mục đích của việc đọc diễn cảm. Như đã nêu ở trên, trong quá trình các em đọc diễn cảm, cơ giáo cần phải đánh giá việc đọc của trẻ, tìm ra những thiếu sót trong cách đọc của trẻ và nêu lên biện pháp khắc phục những thiếu sót đó. Việc làm đó của cô giáo vừa giúp trẻ đọc tiến bộ hơn lại vừa giúp trẻ tập nhận xét đánh giá và phê bình cách đọc của bạn. Để giúp cho trẻ có khả năng đó, cô giáo nên tiến hành cho trẻ nhận xét việc đọc của bạn sau mỗi lần bạn đọc ( về sự trơn tru, diễn cảm, sáng tạo ). Nhưng cũng cần lưu ý thêm rằng việc cho trẻ nhận xét bạn đọc là một việc lam rất tế nhị, những lời động viên, khen gợi, khích lệ là rất cần thiết, điều dó sẽ giúp trẻ tự tin, phấn khởi để đọc ngày một hay hơn.Đặc biệt trong quá trình nhận xét,cô giáo cần tránh lỗi áp đặt đúng, sai và phải sửa chữa ngay sai sót của các em về cách đọc không diễn cảm, hoặc đọc không đúng.Điều quan trọng là trẻ nhận ra được những thiếu sót và sửa chữa ngay thành cách đọc đúng, diễn cảm. Chú ý từng cá nhân phải được đọc thì giọng đọc cần thiết của trẻ qua đọc sẽ được rèn luyện kiểm tra cụ thể.Việc dạy bất cứ một loại hình nghệ thuật nào trong đó có cả việc đọc diễn cảm cũng đòi hỏi cô giáo chú ý đến việc học tập của túng cá nhân.Mặc dù tất cả các em trong lớp điều đọc nhưng chỉ khi từng cá nhân đọc toàn bộ tác phẩm hay một đoạn thì giọng nói,phong cách cần thiết của một người đọc diễn cảm mới được rèn luyện và mới được kiểm tra một cách thật sự.Nếu cô giáo nắm vững đặc điểm cá nhân của các em, biết được trình độ đọc diễn cảm của các em thì có thể dụa vào chất lượng đọc của các em mà xác định được mức độ hiểu biết của trẻ về tác phẩm đó.Sự thể hiện giọng điệu, ngữ điệu,dấu ngắt câu,điệu bộ và cử chỉ của mỗi em có thể cho chúng ta đánh giá sự hiểu biết sâu sắc của em về tác phẩm đó hơn là những câu trả lời. Chúng ta cần phát triển hứng thú, năng lực của mỗi cá nhân và đọc cá nhân là một hình thức của giờ học đọc, trong đó có tính đến những đặc điểm khả năng của từng em. Việc đọc của từng cá nhân đặc biệt quan trọng ,nhờ đó, cô giáo có thể tác động đến từng cá nhân. Để dạy trẻ học và đọc thuộc bài thơ có tình cảm, để bài thơ làm rung động tâm hồn trẻ, cô giáo phải gây hứng thú để trẻ bước vào hoạt động văn học nghệ thuật, gợi lại cho trẻ ấn tượng về bài thơ,
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_giup_tre_hoc_tot_mon_lam.doc