Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5

1. Lí do chọn đề tài.

1.1, Cơ sở lí luận:

 Đặc điểm tâm lí tiêu biểu của trẻ tiểu học là chóng nhớ, chóng thuộc nhưng nhanh quên; các em thường dễ dàng ghi nhớ những kiến thức dạng hình ảnh và cụ thể. Những kiến thức trừu tượng phức tạp thường làm cho các em dễ nhầm lẫn hay mắc rối; đặc biệt là những kiến thức về ngữ pháp – từ ngữ trong chương trình Tiếng Việt lớp 5.

Một trong những mục tiêu cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp và phục vụ giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cơ bản để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt cần được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn ngữ Tiếng Việt có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ.

 Trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, phân môn luyện từ và câu được phân bố đều mỗi tuần 2 tiết. Trong đó, các bài về từ ngữ được học ngay từ tuần thứ nhất. Đây là những kiến thức về ngữ nghĩa được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp. Mặc dù độ khó của những kiến thức này chưa yêu cầu phải huy động quá trình phân tích tư duy nhưng rất cần sự nhạy bén so sánh và phân biệt. Song, việc so sánh và phân biệt hai mảng kiến thức từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề không mấy dễ dàng đối với hầu hết học sinh lớp 5, vì đây là các mảng kiến thức có nhiều điểm tương đồng và không rõ ràng về ranh giới. Vậy mục tiêu dạy học dạy học hai mảng kiến thức này là học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Để phân biệt được hai loại từ này học sinh cần có căn cứ khoa học.

 

docx 23 trang Phúc Lộc 31/03/2025 1660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5
Đề tài: 
Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5.
b===ó===a
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
1.1, Cơ sở lí luận:
 Đặc điểm tâm lí tiêu biểu của trẻ tiểu học là chóng nhớ, chóng thuộc nhưng nhanh quên; các em thường dễ dàng ghi nhớ những kiến thức dạng hình ảnh và cụ thể. Những kiến thức trừu tượng phức tạp thường làm cho các em dễ nhầm lẫn hay mắc rối; đặc biệt là những kiến thức về ngữ pháp – từ ngữ trong chương trình Tiếng Việt lớp 5.
Một trong những mục tiêu cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp và phục vụ giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cơ bản để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt cần được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn ngữ Tiếng Việt có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ.
 Trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, phân môn luyện từ và câu được phân bố đều mỗi tuần 2 tiết. Trong đó, các bài về từ ngữ được học ngay từ tuần thứ nhất. Đây là những kiến thức về ngữ nghĩa được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp. Mặc dù độ khó của những kiến thức này chưa yêu cầu phải huy động quá trình phân tích tư duy nhưng rất cần sự nhạy bén so sánh và phân biệt. Song, việc so sánh và phân biệt hai mảng kiến thức từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề không mấy dễ dàng đối với hầu hết học sinh lớp 5, vì đây là các mảng kiến thức có nhiều điểm tương đồng và không rõ ràng về ranh giới. Vậy mục tiêu dạy học dạy học hai mảng kiến thức này là học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Để phân biệt được hai loại từ này học sinh cần có căn cứ khoa học. 
 2.1, Cơ sở thực tiễn:
Từ ngữ là mảng kiến thức thiết thực đối với học sinh tiểu học. Từ là đơn vị để tạo câu, là nền tảng của mỗi văn bản. Để hiểu được, viết được một câu văn, một đoạn văn, học sinh cần có một khả năng sử dụng từ ngữ tương đối vững chắc; điểu này không phải tất cả học sinh đều làm được. Thực tế dạy học từ ngữ ở chương trình tiểu học chưa được coi trọng, mà chỉ là một mảng kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu. Trong các lần kiểm tra định kì, luyện từ và câu chỉ được kiểm tra trong một ý nhỏ; vì thế hầu hết các giáo viên và học sinh đều xem nhẹ việc dạy và học phân môn này. Dường như rất ít người nghĩ tới tầm quan trọng của phân môn này là phục vụ cho việc sử dụng đúng từ, đặt câu, dựng đoạn văn... Nói chung, từ
ngữ là sợi chỉ xuyên suốt tất cả các phân môn trong bộ môn Tiếng Việt.
Học sinh tiểu học có lượng ngôn ngữ còn ít, khả năng sử dụng ngôn ngữ còn
 hạn chế. Khi trình bày một vấn đề, học sinh tiểu học thường sử dụng ngôn ngữ một cách ngẫu hứng, có khi các em không hề hiểu từ ngữ mình đang nói có nghĩa gì; vì thế ý một đàng trình bày một nẻo. Trong các bài làm văn của các em, hầu như bài nào cũng có những từ ngữ sáo rỗng hoặc tối nghĩa. Những hạn chế về từ ngữ của học sinh phần lớn là hậu quả của quá trình học tập mảng kiến thức về từ ngữ chưa được chú trọng. 
Phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học được tích hợp từ nhiều mảng kiến thức. Trong đó, phần từ ngữ là mảng kiến thức không nhiều. Vì tích hợp nên các mảng kiến thức đều chỉ ở mức cơ bản, không chuyên sâu. Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Khi tiếp cận với các bài Từ đồng nghĩa, Từ trái nghĩa, Từ đồng âm thì các em lĩnh hội tương đối dễ dàng. Song đến bài Từ nhiều nghĩa thì mạch kiến thức về nghĩa từ của các em đã có sự mắc rối, lẫn lộn. Việc lẫn lộn này không chỉ diễn ra ở học sinh yếu mà ngay cả học sinh khá, giỏi cũng có lúc mắc phải. Trăn trở về vấn đề này, qua nhiều năm dạy lớp 5, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp5”
Đây là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu, song chỉ đề cập ở mức độ hàn lâm chuyên sâu vào phương pháp mà không chú trọng đến đối tượng học sinh. Vấn đề hết sức nhạy cảm, bức thiết, phù hợp với xu thế hiện tại của giáo dục hiện nay là dạy học gắn với đối tượng học sinh. Nếu đề tài này được nghiên cứu một cách nghiêm túc và ứng dụng kịp thời, thì có thể giải quyết cơ bản tình trạng khó phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, đồng thời khả năng sử dụng ngôn ngữ kém chính xác của một bộ phận không nhỏ học sinh tiểu học hiện nay.
 2. Mục đích nghiên cứu. 
Nhằm nâng cao chất lượng dạy học từ ngữ ở lớp 5, phát triển kĩ năng sử dụng từ ngữ phù hợp và linh hoạt hơn. Hình thành ý thức sử dụng ngôn ngữ chính xác, chặt chẽ giàu giá trị biểu cảm và có trách nhiệm với lời nói của mình. Qua đó, học sinh có ý thức giữ gìn trong sáng tiếng Việt.
Cung cấp con đường, cách thức học tập giúp học sinh có công cụ tìm kiếm và sử dụng kiến thức là mục tiêu cao nhất của quá trình dạy học. Có được các giải pháp sẽ tạo sự thuận lợi cho người giáo viên truyền thụ kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa; giải quyết phần nào những khó khăn mắc phải trong quá trình dạy học mảng kiến thức này. Vì vậy, việc đưa ra hệ thống các giải pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa phù hợp với đối tượng học sinh là việc làm tối ưu cần thiết, giúp người giáo viên nắm được bản chất vấn đề giúp HS cũng nắm được bản
 chất ấy nâng cao được chất lượng học tập. 
3. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài kết hợp nhiều phương pháp:
 - Phương pháp phân tích tổng hợp
 - Phương pháp so sánh, đối chiếu.
 - Phương pháp phân loại thống kê.
 - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
 - Phương pháp thực nghiệm sư phạm ...
***
B. NỘI DUNG
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
 1. Về giáo viên:
 Trong quá trình dạy học từ ngữ, giáo viên ít quan tâm đến việc xác định đặc trưng của dạng bài học, vì vậy việc thiết kế bài giảng chưa được đầu tư bài bản nên khi trình bày nội dung bài học thường mang tính hàn lâm; nghĩa là quá trình dạy học chỉ dừng lại ở dạng nghiên cứu, học sinh tiếp thu bài học mang tính lí thuyết mà không nắm bắt được những vấn đề thực tiễn, cụ thể; điều này mâu thuẩn với đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học. Việc tổ chức dạy học thường phụ thuộc vào giáo án mẫu ít khi phân tích rõ đặc điểm học sinh lớp học và từng đối tượng cụ thể để chọn ra giải pháp phù hợp cho từng đối tượng. Vì thế, người giáo viên không thể truyền tải trọn vẹn kiến thức của bài học cần trình bày. Có khi thầy dạy để chỉ có thầy hiểu mà thôi.
 Thực tế trong quá trình đào tạo, giáo viên tiểu học không được trang bị kiến thức chuyên sâu về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Để nắm được bản chất đặc trưng của loại từ này, người giáo viên phải tự tìm tòi và nghiên cứu. Thông thường, giáo viên chỉ tham khảo các tài liệu hướng dẫn dạy học mà ít khi tìm đến những tài liệu về chuyên đề. Vì vậy, giáo viên chỉ nắm một cách phiến diện về vấn đề nên không thể sử dụng kiến thức một cách linh hoạt trong quá trình dạy học.
 Phân môn luyện từ và câu trong chương trình tiếng Việt tiểu học có thời lượng không nhiều. Trong đó, mảng kiến thức về từ ngữ chỉ là một phần nhỏ. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa chỉ có thời lượng dạy học với 5 tiết gồm các bài 10, 12,13,14,16. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn thường ít gặp trong các đề kiểm tra nên giáo viên không thực sự chú trọng. Bên cạnh đó, mảng kiến thức này ít có tài liệu chỉ rõ phương pháp dạy học điều đó khiến giáo viên thường phớt lờ, không chú trọng đến giải pháp truyền dạy.
 Trong quá trình dạy học các bài học này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên, do thời lượng 1 tiết học có hạn nên giáo viên chưa lồng ghép, liên hệ, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học. Do đó, sau các bài học đó học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên còn khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài sách giáo khoa để minh hoạ phân biệt
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2. Về học sinh.
 Học sinh tiểu học là đối tượng tiếp xúc với hoạt động học tập chưa lâu, kinh nghiệm sống còn ít, điều này cho thấy vốn ngôn ngữ của các em chưa phong phú. Mặt khác, học sinh tiểu học ở vùng nông thôn được tiếp xúc với các phương tiện thông tin chưa hiện đại, các đối tượng giao tiếp thường có trình độ ở mức thấp khiến cho môi trường học tập của các em thu hẹp trong phạm vi nhà trường. Thời gian học tập ở trường không nhiều so với thời gian lao động và sinh hoạt ở nhà. Đó là những lí do khiến cho vốn ngôn ngữ của các em càng nghèo nàn, không đáp ứng kịp với yêu cầu chương trình sách giáo khoa đã xây dựng. Qua tiếp xúc với các em tôi nhận thấy hầu hết các em có thể hiểu vấn đề, nhưng khi trình bày một vấn đề lại thiếu ngôn ngữ nên thường ấp úng hoặc không nói được theo ý muốn. Khi đưa ra một từ mới, đặc biệt là từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em không hiểu nghĩa hoặc giải nghĩa theo cách nêu thành ví dụ cụ thể, mà không thể nói chính xác được nghĩa của từ đó.
 Bên cạnh việc nghèo nàn về ngôn ngữ, học sinh tiểu học vùng nông thôn rất thiếu khả năng khái quát nghĩa từ. Việc sắp xếp các nhóm từ có cùng trường nghĩa là việc làm khó khăn đối với các em. Các bài tập kiểu này các em chỉ có thể làm được sau rất nhiều gợi ý. Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể là:
 - Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ sai, lúng túng và còn lủng củng.
 - Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: còn mơ hồ, không định rõ ranh giới.
 - Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ; rất ít học sinh tìm đúng nghĩa gốc thậm chí không xác định đúng từ mà nhầm lẫn từ với tiếng.
 - Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
Trong thực tế, học sinh làm các bài tập về từ đông âm nhanh và ít sai hơn khi học các bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể do

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phan_biet_tu_dong_am.docx