Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 4
Năm học 2018-2019, Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phát huy hiệu quả, tiếp tục thực hiện nội dung các cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành phù hợp điều kiện thực tế địa phương. Tiếp tục chỉ đạo việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh, điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học, tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống,đổi mới đồng bộ phương pháp dạy, phương pháp học và kiểm tra đánh giá .
Ở tiểu học môn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó đặt nền tảng, cơ sở giúp học sinh học tập tất cả các môn học khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt ( nghe ,nói ,đọc ,viết ) để học tập và giao tiếp.Qua nhiều năm đứng trên bục giảng tôi nhận thấy hầu như tất cả giáo viên đều rất coi trọng môn Tiếng Việt, dành rất nhiều thời gian cho môn học nhưng chất lượng môn Tiếng Việt vẫn chưa đạt như mong muốn.Một trong những nguyên nhân đó là do hiệu quả phân môn Luyện từ và câu chưa cao.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 4

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN TỨ KỲ TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG ANH SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4. Lĩnh vực/Môn: Luyện từ và câu. Tên tác giả: Đoàn Văn Hưng Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoàng Anh NĂM HỌC: 2018 – 2019 SƠ LƯỢC LÍ LỊCH: 1. Tác giả: Họ và tên: ĐOÀN VĂN HƯNG Ngày, tháng, năm sinh: 09 /10 / 1971 Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm. Chức vụ: Giáo viên. Năm vào ngành: 09/ 1996. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoàng Anh. Điện thoại: 0399583002. 2. Tên sáng kiến : Một số biện pháp nângcao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 4 . 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: - Thời gian nghiên cứu và áp dụng: Năm học 2016- 2017 đến nay. A. PHẨN I : MỞ ĐẦU I .ĐẶT VẤN ĐỀ. Thực trạng của vấn đề. Năm học 2018-2019, Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phát huy hiệu quả, tiếp tục thực hiện nội dung các cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành phù hợp điều kiện thực tế địa phương. Tiếp tục chỉ đạo việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh, điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học, tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống,đổi mới đồng bộ phương pháp dạy, phương pháp học và kiểm tra đánh giá . Ở tiểu học môn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó đặt nền tảng, cơ sở giúp học sinh học tập tất cả các môn học khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt ( nghe ,nói ,đọc ,viết ) để học tập và giao tiếp.Qua nhiều năm đứng trên bục giảng tôi nhận thấy hầu như tất cả giáo viên đều rất coi trọng môn Tiếng Việt, dành rất nhiều thời gian cho môn học nhưng chất lượng môn Tiếng Việt vẫn chưa đạt như mong muốn.Một trong những nguyên nhân đó là do hiệu quả phân môn Luyện từ và câu chưa cao. Làm thế nào để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu góp phần nâng cao chất lượng của môn Tiếng Việt ? Đây là nỗi trăn trở của rất nhiều thầy cô đang trực tiếp đứng lớp, luôn tìm tòi nghiên cứu để tìm các biện pháp thích hợp nâng cao chất lượng giảng dạy. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy nội dung phân môn Luyện từ và câu là phù hợp với năng lực nhận thức của các em. Nếu giáo viên có phương pháp, kỹ năng dạy học tích cực, tổ chức hướng dẫn các hoạt động một cách linh hoạt, nhẹ nhàng thì các em sẽ rất hứng thú, chủ động nắm chắc kiến thức. Ngược lại nếu giáo viên không đổi mới phương pháp dạy mà tổ chức bài dạy đơn điệu, phương pháp áp đặt thì học sinh sẽ khó tiếp thu, sợ học nhất là những em có học lực trung bình , yếu. Ngoài ra trong các nội dung của phân môn Luyện từ và câu thì giáo viên thường xem nhẹ phần mở rộng vốn từ, học sinh không biết thì giáo viên tìm giúp nên các em thường rất thụ động dẫn đến vốn từ nghèo nàn.Vì vậy khi viết văn việc dùng từ đặt câu chưa hay ảnh hưởng chung đến chất lượng môn Tiếng việt. Tóm lại: Sự thiếu hụt kiến thức cũng như phương tiện hỗ trợ dạy học, những giải pháp không thống nhất từ những nguồn tri thức khác nhau cùng với một phương pháp tư duy thiếu mềm dẻo đã dẫn đến một số giáo viên rất lúng túng trong giảng dạy. Những kiến thức không chắc chắn, thiếu tính hệ thống, trong lúc nội dung luôn quyết định phương pháp dạy học, không thể dạy tốt khi không nắm chắc nội dung và tất nhiên học sinh lĩnh hội các kiến thức này sẽ bị hạn chế phần nào. Trong khi đó Luyện từ và câu là phân môn khó dạy trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Phân môn này có nhiều dạng bài tập ảnh hưởng tới việc lựa chọn hình thức, phương pháp dạy, cách tổ chức trong lúc đó giáo viên còn phải dạy các môn học khác cũng không kém phần quan trọng như môn Tiếng Việt. - Trình độ học sinh không đồng đều, vốn từ trước khi đến trường rất ít; khi nói, khi viết rơi vào tình trạng “bí từ, nghèo từ” khi nghe, đọc không có cơ sở để hiểu đầy đủ và hiểu được khá chính xác nội dung. - Đối với phân môn này học sinh hay nhầm lẫn một số từ ghép với từ láy; chưa xác định chính xác từ loại trong câu. - Chủ ngữ trong ba kiểu câu kể phần lớn học sinh đều xác định đúng.Những câu ghép có nhiều chủ ngữ, học sinh thường sai khi xác định chủ ngữ. - Nắm chưa vững về kiểu câu hay nhầm giữa kiểu câu Ai làm gì? và Ai thế nào? - Về bài “Danh từ chung - Danh từ riêng”: Học sinh thường hay quên viết hoa danh từ riêng, khó phát hiện ra danh từ chung so với danh từ riêng, nhiều em chỉ cho tên người là danh từ riêng còn địa danh thì không phải. - Chủ ngữ trong ba dạng câu kể thì học sinh thường không biết đặt câu hỏi để tìm ra chủ ngữ. - Lỗi trong viết câu: viết hoa đầu câu, viết hoa danh từ riêng, không có dấu chấm cuối câu. - Sự phân biệt rạch ròi ba dạng câu kể có nhiều học sinh chưa phân biệt được. - Khả năng chọn từ, lắp ráp thành ngữ, tục ngữ, sắp xếp câu thành đoạn văn chưa tốt. - Dùng từ sai làm cho câu văn tối nghĩa, sai ý, khiến cho người đọc người nghe hiểu nhầm, hiểu không hết ý trình bày. Qua khảo sát đầu năm tại lớp 4A tôi chủ nhiệm với bài dạy Từ ghép, từ láy thu được kết quả như sau: Số học sinh HT Tốt (Giỏi) Hoàn Khá thành Trung bình Chưa HT (Yếu) SL % SL % SL % SL % 40 2 5 6 15 24 60 8 20 Qua bảng khảo sát trên tôi thấy số học sinh đạt điểm giỏi quá ít chỉ có 2/40 học sinh, số học sinh đạt điểm khá không nhiều chỉ có 6/40 học sinh, số học sinh trung bình 24/40 chiếm đa số, số học sinh yếu còn cao 8/40 học sinh. Với những lý do trên đây, tôi xin nêu một vài kinh nghiệm để dạy học tốt phân môn luyện từ và câu lớp 4 mà tôi đã rút ra trong quá trình giảng dạy. với mong muốn khắc phục tình trạng nêu trên góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học. 2.Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp. -Nhằm tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy Luyện từ và câu lớp 4. -Tìm ra những khó khăn, sai sót mà giáo viên và học sinh thường mắc khi dạy và học các bài tập về luyện từ và câu , qua đó đưa ra giải pháp khắc phục có hiệu quả cho quá trình dạy học . - Tạo môi trường hứng thú học tập với phân môn Luyện từ và câu. 3.Phạm vi nghiên cứu. -Một số phương pháp hướng dẫn học sinh làm tốt một số bài luyện từ và câu. - Học sinh lớp 4, Trường tiểu học Hoàng Anh – Tứ Kỳ - Hải Dương . II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH. 1.Cơ sở lý luận. Từ hơn năm trăm năm trước, danh sĩ Thân Nhân Trung đã có câu nói nổi tiếng nêu bật được tầm trọng của nhân tài đối với việc hưng thịnh của đất nước : “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Hiện bài văn bia có câu nói này vẫn còn hiện diện ở văn miếu Quốc Tử Giám - ngôi trường đại học đầu tiên trên đất nước Việt Nam - một biểu tượng sống động cho truyền thống hiếu học và trọng dụng nhân tài của dân tộc ta. Thời xưa, việc đào tạo nhân tài được các bậc đế vương anh minh rất coi trọng, và lịch sử mấy nghìn năm qua đã chứng minh rằng vị vua nào biết trọng dụng nhân tài thì vương triều ấy vững mạnh, vị vua ấy được coi là sáng suốt, được người đời ca tụng. Và ngược lại, khi việc đào tạo và trọng dụng nhân tài bị lãng quên thì thế nước sẽ suy yếuNgày nay trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đất nước ta cần lắm những nhân tài có tầm, có tâm để đưa Việt Nam sánh vai cùng bè bạn năm châu như tâm nguyện của Bác kính yêu lúc sinh thời. Tiểu học là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Bậc Tiểu học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng và phát huy các tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người. Giáo dục tiểu học là giáo dục toàn diện về các mặt : Đức – Trí – Lao – Thể - Mỹ. Cùng với môn Tiếng Việt, các môn học ở Tiểu học giúp học sinh có cơ hội bộc lộ những năng khiếu, tài năng tiềm ẩn của mình. Điều II luật phổ cập giáo dục đã nêu: “ Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân”. Bậc Tiểu học giúp trẻ hình thành những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững về kiến thức và kĩ năng để tiếp tục học lên các bậc học trên. Các nhà giáo dục học thường ví con đường học vấn của một con người giống như một tòa nhà trong đó bậc Tiểu học là cái móng nhà. Móng không vững tất nhà sẽ đổ.... Do vậy mà, bậc Tiểu học nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước. Nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, sau khi Quốc hội thông qua Đề án đổi mới chương trình, Sách giáo khoa giáo dục phổ thông, Bộ Giáo dục – Đào tạo tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng mục tiêu đổi mới, trong đó tăng cường năng lực dạy học theo định hướng phát triển năng lực là một trong những vấn đề cần ưu tiên. Thì môn Tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học. Cung cấp cho các em những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về tự nhiên ,xã hội và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và của nước ngoài, đồng thời bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt , hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt , góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2.Cơ sở thực tiễn. Những mục tiêu cơ bản của môn Tiếng Việt ở Tiểu học được cụ thể hóa thông qua việc dạy học các phân môn : Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu,Tập làm văn và Kể chuyện , trong đó Luyện từ và câu có vai trò rất tích cực trong việc rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng việt cho học sinh ngay từ lớp 2,3. Phân môn Luyện từ và câu đã giúp các em mở rộng và hệ thống hóa các vốn từ theo chủ điểm , được làm quen với các mô hình câu “Ai là gì ?” ,”Ai làm gì ?”, “Ai thế nào? “,với các dấu câu (dấu chấm , dấu phẩy) đồng thời tập trả lời các câu hỏi “ Ở đâu?”, “Khi nào ?”, “Vì sao?” nhưng lên lớp 4 những kiến thức và kỹ năng đó đã được mở rộng và nâng cao hơn, mang tính khái quát và trừu tượng hơn, đòi hỏi người học phải tư duy nhiều hơn trong quá trình học
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_d.doc