Báo cáo biện pháp Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm
Như chúng ta đã biết,từ nhiều năm nay, ngành Giáo dục - Đào tạo luôn đẩy mạnh việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm hướng tới hiệu quả giáo dục cao nhất để tạo ra nguồn lực con người có chất lượng cho đất nước. Đó là những con người phát triển toàn diện, có tri thức khoa học, biết chiếm lĩnh đỉnh cao trong học tập và lao động sáng tạo, có nếp sống văn minh thanh lịch, biết kế thừa và phát huy những nét đẹp trong truyền thống đạo lý của dân tộc.
Về bản chất, đổi mới phương pháp dạy học là đưa phương pháp dạy học mới vào giảng dạy trên cơ sở phát huy mặt tích cực của phương pháp dạy học truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học.Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều, lối học thụ động, máy móc sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau; qua đó, bồi dưỡng niềm say mê học tập và ý chí vươn lên.
Trong nhà trường, tất cả các môn học đều cần sự đổi mới nhằm đạt được mục tiêu trên. Trong đó, không thể không nói đến môn Ngữ văn với những đặc trưng riêng biệt.Đây là môn học có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, có nhiệm vụ giúp học sinh thấm nhuần những đạo lí ngàn đời của dân tộc, đồng thời có những phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại.Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của dạy học môn Ngữ văn là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy họcbằng cáchthực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui cho các em trong học tập.Do đó, việc đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh là điều tất yếu.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm
duy tìm tòi, sáng tạo của các em. Giáo viên phải nhận thức sâu sắc rằng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ hoặc thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống. Đối với môn Ngữ văn, do đặc thù tri thức của bộ môn, nên các phương pháp truyền thống nếu biết vận dụng hợp lý thì vẫn rất hiệu quả. Cần kế thừa và phát triển những mặt tích cực của phương pháp dạy học truyền thống như phương pháp thuyết trình, vấn đáp (những phương pháp này đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của nó trong những thập niên trước của thế kỉ hai mươi) Đồng thời vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các phương pháp hiện đại nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập phù hợp với hoàn cảnh dạy học bộ môn hiện nay như phương pháp thảo luận nhóm. Thực tiễn giảng dạyđã cho tôi hiểu rằng vận dụng hợp lý các phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại sẽ mang lại hiệu quả khả quan. 2.2. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong việc sử dụng phương pháp đóng vai và thảo luận nhóm Như chúng ta đã biết, theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhiều năm gần đây, các giáo viên đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào dạy học theo hướng sử dụng CNTT như một phương tiện hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học.Vì vậy, từng bước áp dụng các phương tiện hiện đại như: máy chiếu đa năng, máy chiếu vật thể, projector... băng hình, tranh ảnh vào dạy học là con đường hữu hiệu có tác dụng nâng cao hiệu quả tiết học. Mặt khác, nếu ứng dụng thành công CNTT vào dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung, vào việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm nói riêng, thì chắc chắn học sinh sẽ hứng thú hơn. Đặc biệt ở cấp THCS, với học sinh lớp 9, giáo viên có thể huy động học sinh cùng tham gia xây dựng bài giảng qua các tình huống được thể hiện trên clip hoặc trình chiếu Powerpoint do chính học sinh thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 2.3. Rèn luyện để tạo thói quen tốt cho học sinh trong thảo luận nhóm Trước hết, cần yêu cầu học sinh soạn bài theo hướng dẫn của giáo viên. Đây là công việcphải được thực hiện một cách tự giác để học sinh bước đầu tự khám phá tri thức, cảm nhận được vẻ đẹp của tác phẩm văn chương. Cần rèn cho học sinh có thói quen đọc tác phẩm kỹ càng, ghi nhớ và suy ngẫm những câu, những đoạn mà mình tâm đắc nhất. Bên cạnh đó, cần rèn cho các em thói quen sẵn sàng hợp tác trong nhóm, trong lớp, có ý thức chuẩn bị các tình huống đóng vai được thầy cô giao về nhà một cách thật nhiệt tình, say mê và sáng tạo. Rèn kỹ năng nói qua việc mạnh dạn trình bày ý kiến trước lớp và tranh luận phản bác với các nhóm khác. 2.4. Phát huy vai trò của giáo viên Cần phải hiểu rằng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh không có nghĩa là hạ thấp hay giảm nhẹ vai trò của giáo viên. Muốn vận dụng phương pháp dạy học tích cực đạt hiệu quả cao, người giáo viên phải thực sự trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập độc lập hoặc theo nhóm để học sinh chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành kỹ năng, thái độ, tình cảm và niềm tinh theo yêu cầu của nội dung, chương trình. Để đạt được điều đó, hoạt động của giáo viên phải đa dạng hơn, phức tạp hơn và khó khăn hơn nhiều. Khi vận dụng các phương pháp tích cực, giáo viên có sự giao tiếp thường xuyên với học trò. Vì vậy, giáo viên phải có chuyên môn, có kinh nghiệm sư phạm vững vàng, làm chủ được diễn biến của tiết học thì mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập của học sinh. Trên hết, đó còn là niềm tin, là lòng nhiệt tình. Khi đó, giáo viênmới thật sự say mê để sáng tạo và đổi mới không ngừng trong quá trình dạy học. Về cách thức tổ chức học sinh thảo luận nhóm. Trước hết,giáo viênphải dứt khoáttrong động thái,nghiêm túc về tư thế tác phong sư phạm, linh hoạt trong xử lý tình huống.Ngoài ra, cần phải duy trì trật tự lớp học do việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm dễ gây ra những xáo trộn trong lớp.Cần phải có quy định về các nguyên tắc thảo luận nhóm cho học sinh. Bởi một lớp học không phải tất cả học sinh đều có ý thức tự giác trong học tập. Chính vì vậy, trong các giờ thảo luận giáo viên phải đề ra các quy định cho các nhóm, cụ thể là tất cả học sinh phải tham gia thảo luận cùng với nhóm. Ngoài ra,cần quy định rõ về thời gian thảo luận, thời gian trình bày để tránh tình trạng học sinh trình bày lan man, không đảm bảo thời gian cho tiết học.Phương pháp thảo luận nhóm nên chú trọng đối thoại, phát huy dân chủ rộng rãi, thông tin đa chiều nhưng cũng cần hướng vào trọng tâm, mục đích yêu cầu nội dung thảo luận tránh nói lan man, dài dòng. Giáo viên cũng cần hết sức chú ý đến phần nhận xét, đánh giá học sinh để khích lệ các em. III – MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HOẠ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM 1. Bài “Cảnh ngày xuân” Để thấy rõ nét tài hoa của thi hào Nguyễn Du trong cách dùng từ, tôi dã đưa ra chủ đề: “Chứng minh rằng trong sáu câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng từ láy rất tài tình”. Sau khi các nhóm trình bày, tôitổng hợp ý kiến của các nhóm, giúp học sinh nhận thấy: chỉ trong sáu câu thơ, Nguyễn Du sử dụng tới năm từ láy (tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ); có từ láy vừa gợi sắc thái cảnh vật, vừa gợi tâm trạng con ngườivà còn góp phần dự báo về điều sắp xảy ra. Cảnh vật hiện lên với nét thanh tú, dịu dàng, tĩnh lặng đồng điệu với tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối của con người. Tiếp đó là một nội dung thảo luận về sự tài tình trong bút pháp tả cảnh ngụ tình của thi sĩ: Hai cặp câu thơ sau đều tả hình ảnh cây cầu và dòng sông. Vì sao chúng lại có sắc thái ý nghĩa khác nhau ? “ Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.” “Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.” Các ý học sinh cần nhận ra là cùng miêu tả một đối tượng (một cây cầu, một dòng sông) qua cái nhìn của cùng một nhân vật ở hai thời điểm rất gần nhau nhưng lại gắn với tâm trạng không giống nhau. Vì vậy, sắc thái cảnh vật cũng khác nhau. Khi Kiều đi du xuân trở về trong niềm bâng khuâng tiếc nuối, lại chuẩn bị gặp mộ Đạm Tiên thì cảnh vật vắng lặng, ảm đạm gợi buồn (cặp câu thơ thứ nhất). Nhưng ngay sau đó, khi nàng gặp Kim Trọng, những rung cảm về mối tình đầu “tình trong như đã, mặt ngoài còn e” đã khiến không không gian lại trong sáng, êm đềm, dịu nhẹ như ở chốn thần tiên. Qua hai tình huống tổ chức thảo luận nhóm, học sinh hiểu rõ hơn về tài năng sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du. 2. Bài “Chuyện người con gái Nam Xương” Lần thư nhất, thảo luận nhóm với nội dung: Nêu ý nghĩa của chi tiết “cái bóng” trong câu chuyện. Sau khi các nhóm trình bày, giáo viên chốt lại: Chi tiết này hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Trước hết, nó giúp người đọc hiểu được đức hạnh của Vũ Nương; đồng thời tạo ra bi kịch (chứa đựng những yếu tố dễ nghi ngờ, được nói ra từ miệng một đứa trẻ) của Vũ Nương; khắc hoạ đậm nét nỗi oan vô bờ của nàng khiến người đọc thêm căm phẫn xã hội phong kiến bất công, tàn ác.Đây là chi tiết làm câu chuyện phát triển, không có nó ta không thể biết được hoàn cảnh và số phận, tính cách của Vũ Nương. Sau đó, là nội dung: “Chuyện người con gái Nam Xương” đáng lẽ có thể kết thúc ở chi tiết Vũ Nương tự tử ở bến Hoàng Giang nhưng tác giả đã thêm vào một đoạn truyện có rất nhiều yếu tố truyền kì. Nêu ý nghĩa của những yếu tố đó. Từ ý kiến các nhóm, tôi đã tổng kết những ý nghĩa của chi tiết này: Trước hết, chi tiết cái bóng khẳng định được bản chất tốt đẹp của Vũ Nương: được sống bình yên, đầy đủ dưới thuỷ cung vẫn ý thức được bổn phận làm vợ, làm con. Nó còn góp thêm một tiếng nói chứng minh cho chân lý “ ở hiền gặp lành”, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta : người tốt gặp oan ức sẽ có ngày được đền trả. Đặc biệt, nó tạo ra kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyệnvì Vũ Nương trở về lộng lẫy, trang trọng từ một cuộc sống bình yên, sung sướng; nàng trở về từ chính nơi âm thầm ra đi khiến người đọc cảm nhận được cuộc sống của nàng như không hề đứt đoạn, nàng đã trở về trong ánh sáng của đàn tràng giải oan do chính Trương Sinh dựng nên. Tuy nhiên, đây cũng là kết thúc không có hậu vì cuộc sống dưới thuỷ cung chỉ là cuộc sống ảo, tác giả chỉ thêm vào câu chuyện nhằm làm tăng thêm tính chất truyền kì và hoàn chỉnh nét đẹp của nhân vật; hình ảnh Vũ Nương trở về chỉ là hình ảnh ảo, lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất bởi nếu nàng có trở về thì cũng không thể chắp vá được những mảnh vỡ của hạnh phúc; bé Đản mãi mãi thiếu vắng sự chăm chút yêu thương của người mẹ, vợ chồng mãi xa nhau và phần mộ tổ tiên vẫn thiếu một bàn tay chăm sóc.) 3. Bài “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu Trước hết, sau khi học sinh nêu được tình huống truyện, tôi yêu cầu học sinh thảo luận về ý nghĩa của những tình huống truyệnđể các em hiểu được thông qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm tới người đọc những suy tư chiêm nghiệm về cuộc đời con người cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn; trên đường đời, con người thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình; bình thường, con người không dễ gì nhận ra sự giàu có và mọi vẻ đẹp ở những sự vật bình dị quanh ta. Để học sinh hiểusâu sắc ý nghĩa tác phẩm cúng như sự tài hoa của Nguyễn Minh Châu trong việc sử dụng những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, tôi cho các em thảo luận với nội dung: Nêu ý nghĩa nhan đề “Bến quê”.Từ đó, tôi tổng kết ý kiến của các em: Nghĩa thực là bến đò quê hương, bờ bãi bên kia sông, nơi Nhĩ sinh ra và lớn lên. Nghĩa tượng trưng là vẻ đẹp gần gần gũi, bình dị, thân thiết và giàu có mà đến tận cuối đời Nhĩ mới phát hiện và trân trọng. Bến quê thể hiện một tình yêu cuộc sống mãnh liệt của Nhĩ trước những gì thân quen, thương yêu nhất như người vợ của anh và những gì hồn nhiên, gần gũi nhất như bầy trẻ, ông lão hàng xóm. Bến quê còn biểu tượng cho những gì thuần phác nhất, cổ xơ nhất của mảnh đất đã sinh ra và nhận ta về khi nhắm mắt xuôi tay...Từ đó học sinh càng hiểu được chủ đề của truyện ngắn có kiểu nhân vật tư tưởng.Đồng thời các em cũng hiểu được thông qua “Bến quê”, Nguyễn Minh Châu muốn thức tỉnh ở mỗi con người những vẻ đẹp bình dị, gần gũi và rất giàu có của gia đình, quê hương. 4. Bài “Nghĩa tường minh và hàm ý” Đây là bài học nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết về ý nghĩa ngôn từ trong giao tiếp hàng ngày và trong thơ văn. Tôi đã giao bài tập thảo luận nhóm cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà với nội dung: Xây dựng đoạn đối thoại có sử dụng hàm ý trong thời gian tối đa là hai phút để các bạn giải đoán được hàm ý và nhận xét tác dụng của hàm ý. Các học sinh trong nhóm đã thảo luận để thống nhất việc xây dựng kịch bản theo nội dung bài tập. Sau đó, các nhóm đã phân công thực hiện tình huống và chính các em ở một số nhóm đã quay phim (bằng máy ảnh, điện thoại,) rồi đưa lên máy tính và sử dụng để trình chiếu Powerpoint. Trên lớp, khi được xem đoạn clip, học sinh rất bất ngờ trước khả năng diễn xuất của các bạn và hào hứng nhận xét, bày tỏ quan điểm. Từ đó,các em hiểu được hiệu quả của việc sử dụng hàm ý trong giao tiếp là tạo ra sự tế nhị, kín đáo. Như vậy, các em đã hiểu được kiến thức, hình thành kĩ năng, thái độ một cách hết sức tự nhiên. Để học sinh tránh những tình huống sử dụng hàm ý với mục đích không đẹp (mỉa mai, dè bỉu người khác), tôi đã giao bài tập về nhà từ giờ học trước: xây dựng tình huống sử dụng hàm ý với mục đích không đẹp này. Sau đó, cho học sinh nhận xét về cách sử dụng hàm ý của nhân vật. Có một nhóm đã ghi hình đoạn hội thoại thể hiện tình huống và diễn xuất khá tự nhiên nên tôi đã sử dụng trong trình chiếu Powerpoint vào bài giảng của mình. Vì đây là một tình huống rất đời thường (hai bạn bàn luận về trường hợp một bạn cùng lớp được điểm cao môn Văn, một bạn tỏ ý ngưỡng mộ, một bạn tỏ ý ghen tị một cách kín đáo) nên các em đã rất hào hứng bày tỏ quan điểm của mình. Đại đa số các em đều thấy được là không nên có thái độ như nhân vật trong tình huống. Theo tôi, học sinh đã có sự nhận thức của riêng mình để từ đó biết tránh sử dụng hàm ý vào những mục đích không tốt. 5. Bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải Trong hoạt động thứ nhất: Hướng dẫn học sinh cảm nhận vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế và cảm xúc của nhà thơ, tôi đã đưa ra câu hỏi thảo luận: Trong hai câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”, có người hiểu từ “giọt” là giọt mưa xuân, có người lại cho là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện được nói đến ở câu thơ trước đó. Ý kiến của em thế nào? Các nhóm có rất nhiều ý kiến trái chiều và đều đưa ra lý lẽ để bảo vệ ý kiến của mình. Tôi đã tổng kết ý kiến của các nhóm để tự các em nhận thấy ý kiến nào là phù hợp hơn. Hiểu từ “giọt” ở đây là giọt mưa xuân hay giọt âm thanh đều có phần hợp lý. Mưa xuân cũng là một nét quen thuộc của khung cảnh mùa xuân và gợi cảm xúc xôn xao trong lòng người. Vì mưa xuân thường nhẹ và ấm không giá lạnh như trong tiết đông nhưng cũng có chỗ chưa hợp lý vì mưa xuân thường là mưa rất nhỏ, khó có thể tạo thành “Từng giọt long lanh rơi”. Còn cách hiểu đó là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện lại xuát phát từ chỗ cho rằng giữa hai câu thơ này với hai dòng thơ trước có sự liền mạch. Hiểu như vậy thì câu thơ không chỉ dừng lại ở nghĩa tả thực mà còn biểu thị sự chuyển đổi cảm giác gợi ra tiếng chim lảnh lót, vang vọng, trong trẻo được cảm nhận như một dòng âm thanh tuôn chảy vào ánh sáng tươi tắn, rạng rỡ của trời xuân; giọt âm thanh ấy trong cảm nhận của nhà thơ rất long lanh nên ông trân trọng, nâng niu đưa tay đón lấy. Tôi cảm nhận học sinh ở tất cả các nhóm tuy có ý kiến trái chiều nhưng đều thoải mái. Sau đó, để củng cố bài học, tôi lại cùng các em trao đổi một nội dung dưới hình thức thảo luận nhóm: Nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ” gắn bó thế nào với quan niệm sống của tác giả?. Sau khi học sinh trình bày, tôi tổng kết ý kiến của các nhóm: Tên bài thơ gắn bó chặt chẽ với quan niệm sống của tác giả. “Mùa xuân nho nhỏ” ở đây nghĩa là một mùa xuân khiêm tốn, bé nhỏ, hữu hạn của mỗi con người trước mùa xuân lớn lao, hùng vĩ của thiên nhiên và đất nước. Nhà thơ quan niệm mỗi một con người dù già hay trẻ, suốt cả cuộc dời đều phải cống hiến phần nhỏ bé của mình cho xã hội, đất nước và đó phải là một sự cồng hiến khiêm nhường, tự nguyện. Trong bài thơ, nhà thơ đã ước mình là một mùa xuân nho nhỏ, là một tiếng chim, một cành hoa, một nốt nhạc trầm xao xuyến để nhập vào bản hoà ca lớn lao của cả dân tộc. Đây chính là khát vọng được dâng hiến cho đời của nhà thơ. Qua phần thảo luận này, các em đã hiểu được chủ đề của bài thơ và ít nhiều cũng đã có những nghĩ suy về một lý tưởng sống đẹp đã trong hiện tại và tương lai. 6. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận Như chúng ta đã biết, đối với các tác phẩm văn chương, cần chú trọng tới việc hướng dẫn học sinh phân tích vẻ đẹp của ngôn từ. Vì vậy, tôi dã cho học sinh thảo luận nhóm nội dung: Phân tích cái hay của từ “lại” trong câu thơ “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Đây là một câu hỏi tương đối khó với học sinh lớp 9 nên các em cũng chỉ cảm nhận được ở một mức độ nào đó. Trên cơ sở ý kiến của học sinh, tôi bổ sung để các em hiểu từ “lại” trong câu thơ rất giàu ý nghĩa. Nó vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự một hoạt động thường nhật;vừa diễn tả nhịp điệu lao động khẩn trương, liên tục diễn ra ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, có khi gặp bó với cả cuộc đời người dân chài lưới nhưng họ vẫn say mê lao động, quên cả thời gian. Nó còn biểu thị sự tương phản với hai câu thơ trên trong cảnh màn đêm buông xuống, mọi vật đã chìm vào cái tĩnh lặng, êm đềm, kỳ bí của cảnh biển đêm thì đờn thuyền lại ra khơi bắt đầu một hành trình mới với khí thế băng băng lướt sóng, đầy quyết tâm. Vậy là chỉ với một phó từ mà người đọc đã cảm nhận được sự hăng say, nhiệt tình lao động đáng trân trọng của người dân chài lưới. Tôi còn cho học sinh cùng tìm hiểu ý nghĩa của từ “xoăn” và “chùm". Phân tích cái hay của hai từ trong câu thơ “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng. Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Qua phần thảo luận, các em đã hiểu được “xoăn” là trạng thái bị cuộn lại thành từng vòng nhỏ, còn chùm là tập hợp nhiều vật cùng loại chụm lại quanh một điểm. Trong câu thơ, ta có thể thấy “xoăn tay” không phải là tay bị xoăn mà đó là lưới xoăn lại bởi chùm cá trong lưới rất nặng. Khi tay người kéo lên thì phải xoắn chùm lưới lại để kéo cho dễ. Từ “chùm” còn gợi hình ảnh một túi lưới đầy ắp cá, gợi sức nặng và nhiều vô kể cá trong lưới. Đó là món quà mà biển cả ban tặng cho con người, đồng thời là thành quả xứng đáng của tinh thần hăng say, quyết tâm chinh phục biển khơi. Học sinh còn khâm phục tài năng dung từ hết sức tinh tế của nhà thơ Huy Cận. Như đã nói ở trên, phương pháp thảo luận nhóm chỉ thực sự hiệu quả khi giáo viên biết cách tổ chức hoạt động trên lớp, đồng thời phải có phần thiết kế giáo án hợp lý, sáng tạo và biết sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học. Trên tinh thần đó, tôi xin minh hoạ phần thiết kế giáo án của hai bài học trong chương trình Ngữ văn lớp 9 có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm (có đĩa DVD bài giảng điện tử sử dụng clip đóng vai của học sinh minh hoạ kèm theo). Tiết 137 Hướng dẫn tự học BẾN QUÊ I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT Tiếp nối tiết 136, qua hình thức hướng dẫn tự học, giúp học sinh: - Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ trong truyện, cảm nhận được ý nghĩa triết lý mang tính trải nghiệm về cuộc đời con người; biết nhận ra những vẻ đẹp bình dị và quý giá trong những gì gần gũi của quê hương, gia đình - Phân tích được những đặc sắc của truyện: kiểu nhân vật tư tưởng, sáng tạo tình huống – trần thuật qua dòng nội tâm nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu đầy chất suy tư, sáng tạo hình ảnh biểu tượng - Rèn kĩ năng phân tích tác phẩm truyện có sự kết hợp các yếu tố tự sự, trữ tình, triết lý. II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH Giáo viên Soạn giáo án, chuẩn bị tư liệu, bài hát Khúc hát sông quê. Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Máy chiếu vật thể, máy tính, projector. Học sinh Soạn bài theo hướng dẫn của giáo viên. III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Phương pháp đàm thoại. Phương pháp thảo luận nhóm. Phương pháp thuyết trình. IV. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG TRÊN LỚP - Kiểm tra bài cũ : Nhĩ đã cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu như thế nào ? -Giới thiệu bài mới: Không chỉ cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong một sáng đầu thu với một niềm xa xót, ân hận, Nhĩ còn phát hiện ra những quy luật của cuộc sống từ chính cảnh ngộ của mình. -Bài mới : Hoạt động của giáo viên Hoạt động của HS Nội dung cần đạt Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu những quy luật của cuộc sống mà nhân vật Nhĩ phát hiện ra Yêu cầu học sinh đọc “Nhĩ khó nhọc... mòn lõm” -Nhĩ đã hỏi Liên những gì? Thái độ của Liên như thế nào? Tại sao Liên không đáp lời Nhĩ? -Nhĩ đã cảm nhận những gì về Liên? + Lần đầu tiên thấy Liên mặc tấm áo vá + Lắng nghe tiếng bước chân quen thuộc của vợ trên những bậc gỗ mòn lõm + Thấu hiểu tấm lòng hy sinh của Liên -Phân tích cái hay của hình ảnh so sánh cuối trang 105 + bãi bồi có phù sa bồi đắp ®màu mỡ + hy sinh vì chồng con theo năm tháng ® tâm hồn đẹp hơn lên - Từ cảm nhận về Liên, anh đã phát hiện ra quy luật gì từ chính hoàn cảnh của mình? - Nhĩ khao khát điều gì? Vì sao anh có khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông? -Vì sao lúc này Nhĩ mới nhận ra điều đó? Hưóng dẫn học sinh liên hệ với trạng thái tâm lý của nhân vật trữ tình trong “Ánh trăng” của Nguyễn Duy để thấy rõ sự thức tỉnh, niềm ân hận và tiếc nuối của Nhĩ - Để thực hiện được khát khao , anh nhờ Tuấn làm thay. Con không hiểu ý cha, miễn cưỡng mải mê chơi cờ, lỡ đò, Nhĩ có chiêm nghiệm như thế nào? Điều này thể hiện ở câu văn nào? - Nhờ bọn trẻ, anh xích lại gần cửa sổ, thấy con đò chạm bờ, anh có hành động gì? Ý nghĩa của hành động ấy? + Giục con mau mau kẻo lỡ chuyến đò. + Thức tỉnh mọi người dứt ra những cái chùng chình vòng vèo. Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm - Vì sao nói ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Minh Châu rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo?
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_gio_day_ho.doc