Báo cáo biện pháp Tạo hứng thú cho học sinh thông qua trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS

Ngữ văn là một môn học có sự tích hợp nhiều nhất: Từ sự hợp lực của ba phân môn, từ kiến thức của các môn học khác, từ kiến thức trong cuộc sống xã hội, từ các tri thức kỹ năng, phương pháp giảng dạy, từ kinh nghiệm của thực tiễn.

Hơn thế nữa việc đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Dạy học theo hướng “Tích cực hoá” lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, vai trò của người thầy là người tổ chức – chủ đạo, học trò là người chủ động khám phá – lĩnh hội kiến thức.

Vấn đề tích hợp là nội dung quan trọng không thể thiếu trong việc đổi mới thay sách, đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Vì vậy đòi hỏi người dạy phải linh hoạt vận dụng nhiều biện pháp, thao tác, kỹ năng để giảng dạy tốt hơn. Song vấn đề tích hợp quá còn mới mẻ, còn khó khăn của giáo viên trong sự đổi mới phương pháp giảng dạy tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh nhằm nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh.

 

docx 15 trang Chí Tường 21/08/2023 1880
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Tạo hứng thú cho học sinh thông qua trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Tạo hứng thú cho học sinh thông qua trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS

Báo cáo biện pháp Tạo hứng thú cho học sinh thông qua trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS
cụ nghe, nhìn, tài liệu tham khảo cho giáo viên cũng như học sinh khiến cho việc áp dụng phương pháp dạy học mới gặp nhiều khó khăn dẫn tới việc dạy – học chay.
Học sinh lại có thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì mà giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn của người khác. Lẽ ra học sinh là chủ của tri thức lại trở thành lệ thuộc sách vở. Học sinh chưa hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cả nhân trước tập thể cho nên khi phải nói và viết, học sinh gặp rất nhiều khó khăn.
Qua phân tích những nguyên nhân trên, tôi thấy rằng phương pháp dạy học có vai trò rất lớn trong việc truyền thụ kiến thức cũng như hình thành cho học sinh kỹ năng và phong cách hoạt động để nắm tri thức một cách chủ động, sáng tạo.
Từ kết quả đạt được cũng như từ yêu cầu thực tiễn, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm “ Tạo hứng thú cho học sinh thông qua trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS” của mình để chia sẻ với đồng nghiệp, đặc biệt là những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS. Mong sao được sự tiếp nhận và áp dụng của các đồng nghiệp để cùng nâng cao chất lượng giáo dục học sinh cũng như để thực hiện tốt nhiệm vụ của năm học.
2. Mục đích nghiên cứu:
Khi chọn hướng nghiên cứu “ Tạo hứng thú cho học sinh thông qua trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS”, tôi muốn cung cấp cho học sinh một con đường dễ dàng, hấp dẫn hơn để tiếp cận với các kiến thức trong môn Ngữ Văn và rèn luyện một số kĩ năng phục vụ cho hoạt động học tập của các em. Đồng thời, đề tài này cũng giúp cho bản thân tôi trau dồi thêm về khả năng tự học, tự tìm tòi của bản thân giúp bài dạy của mình sinh động, hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó, tôi còn hướng tới mục đích để trao đổi với đồng nghiệp để cùng nhau bổ khuyết, xây dựng cho giải pháp càng hoàn thiện hơn trong quá trình giảng dạy.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Lí luận:
- Đổi mới phương pháp dạy học.
- Phương pháp tổ chức các trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn.
3.2. Thực tiễn:
Nghiên cứu qua các bài học ở khối lớp 6,8,9 
II. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI
1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Như chúng ta đã biết, ngày 24/01/2002, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký và cho ban hành Quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT. Môn Ngữ văn được triển khai dạy học theo nguyên tắc tích hợp (Văn học - Tiếng Việt - Tập làm văn) nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Trong những năm gần đây, vấn đề này lại càng được chú trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của BCH TW Đảng khoá VIII nêu rõ: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”, “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Bên cạnh đó như tôi đã trình bày ở phần trên: Giáo viên tuy có ý thức đổi mới phương pháp dạy học nhưng nhìn chung vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của phương pháp dạy học truyền thống. Điều này gây tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận tri thức một cách thụ động của học sinh. Học sinh như trở thành một cỗ máy tiếp nhận chứ không chủ động, sáng tạo. Trong khi việc dạy Ngữ văn hiệu quả lại có những đòi hỏi cao. Dạy văn không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn phải hay, phải lôi cuốn học sinh, làm cho học sinh thích thú, say mê học tập. Đây là môn học kết tinh nhiều giá trị văn hoá của dân tộc cũng như của nhân loại, là môn học có ý nghĩa trong việc hình thành phát triển nhân cách cho học sinh và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em. Mặt khác đây là môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sáng tạo của các em học sinh. Điều này lại làm cho việc giảng dạy môn Ngữ văn càng khó hơn.
2. Thực trạng vấn đề:
Thực tế chúng ta thấy rằng, càng ngày số lượng học sinh học giỏi bộ môn Ngữ văn càng ít bởi lẽ các em vẫn còn thấy chưa hứng thú với việc học bộ môn này. Các em thấy rằng việc học Ngữ văn là quá nặng nề vì phải học thuộc lòng nhiều, phải ghi nhiều trong quá trình học tập. Chính điều này đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy và học Ngữ văn. Đây là yêu cầu bức thiết được đặt ra đối với những giáo viên giảng dạy bộ môn này.
Trước thực trạng đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở là làm sao cho học sinh của mình học tập tiến bộ môn Ngữ văn hơn? Làm sao cho các em yêu thích môn học này hơn? Để giải quyết được điều này, tôi đã phân tích, nghiên cứu và sáng tạo trong việc vận dụng phương pháp vào giảng dạy, tạo cho mỗi tiết dạy Ngữ văn trở thành những tiết học mà học sinh mong đợi.
 Trong những năm giảng dạy vừa qua, tôi cũng đã tiến hành áp dụng một số
phương pháp vào việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong đó việc tổ chức, vận dụng trò chơi trong dạy học đã đạt được kết quả như mong đợi. Đó là học sinh càng yêu thích môn học này hơn và kết quả học tập càng cao hơn. 
Từ những thực tế đó, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm nho nhỏ đó là sử dụng phương pháp “tổ chức trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn THCS” sẽ tạo cho học sinh có hứng thú trong tiết học, các em sẽ tiếp thu bài học một cách chủ động và dễ dàng hơn. Mong rằng kinh nghiệm của tôi được sự đón nhận của đồng nghiệp. Mong sao kinh nghiệm đó cũng sẽ giúp chất lượng giáo dục ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Từ thực trạng học tập môn Ngữ văn chưa đạt hiệu quả cao, tôi đã tiến hành phương pháp hoạt động nhóm và tổ chức trò chơi trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên để làm được điều này, đòi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu kỹ các tiết dạy để từ đó có định hướng lựa chọn các hình thức tổ chức hoạt động trò chơi cho thích hợp. Nhưng về cơ bản, việc tổ chức trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn được thực hiện như sau:
 3.1. Chuẩn bị:
 - Giáo viên: Đọc và tìm hiểu nội dung bài học để lựa chọn trò chơi cho phù hợp với tiết dạy. Hướng dẫn thể lệ, cách thực hiện trò chơi (tuỳ thuộc vào từng trò chơi để đưa ra luật chơi).
 - Học sinh: Nắm chắc thể lệ trò chơi do giáo viên đưa ra để tuân thủ thực hiện
một cách nghiêm ngặt và đúng quy tắc. Nếu là trò chơi mang tính chất tập thể thì đòi hỏi mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm và ý thức cao khi tham gia chơi.
3.2. Tiến hành:
Tùy thuộc vào từng trò chơi để có cách thức tiến hành phù hợp nhưng nhìn chung học sinh sẽ là người chủ động chơi và trong quá trình chơi giáo viên sẽ là người cố vấn để các em vừa chơi vừa tiếp thu hoặc củng cố được kiến thức.
Tất cả những vấn đề tôi đã trình bày trên cũng chỉ là lý thuyết. Để thấy được kết quả cụ thể, bản thân tôi đã tiến hành thực hiện cụ thể nhiều tiết dạy có sử dụng trò chơi để tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy.
3.2.1. Trò chơi điền bảng (kết hợp với hoạt động nhóm):
 * Đặc điểm: 
Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập. Thay bằng việc cho học sinh lập bảng thống kê kiến thức bình thường, ta có thể làm thành những thẻ (tờ phiếu) kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng thẻ này để điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học sinh thống kê được kiến thức. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả lớp.
* Chuẩn bị:
 Giáo viên làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các thẻ, các thẻ này phát cho các nhóm.
* Ví dụ:
 Tiết 38: ÔN TẬP TRUYỆN KÝ VIỆT NAM (Ngữ văn 8)
 - Trong phần lập bảng thống kê các văn bản truyện ký Việt Nam, ta giữ lại các ô:
Tên các tác phẩm, thứ tự, tác giả, tác phẩm, thể loại, năm sáng tác, phương thức biểu đạt, nội dung chủ yếu, đặc điểm nghệ thuật. Các ô nội dung khác bỏ trống để học sinh dán thẻ kiến thức.
TT
Tác phẩm,
tác giả
T.loại
Năm
sáng tác
PTBĐ
Nội dung chủ yếu
Đặc sắc nghệ
thuật
1
Tôi đi học (Thanh Tịnh)
2
Trong lòng mẹ (Nguyên Hồng)
3
Tức nước vỡ bờ (Ngô Tất Tố)
4
Lão Hạc
 ( Nam Cao)
- Các nhóm học sinh nhận thẻ kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận để tìm và
đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống.
- Đại diện các nhóm học sinh lên trình bày và dán phiếu vào bảng tổng kết.
- Nhóm nào dán đúng thì tất cả thành viên sẽ được khen.
TT
Tác phẩm,
tác giả
T.loại
Năm
sáng tác
PTBĐ
Nội dung 
chủ yếu
Đặc sắc 
nghệ thuật
1
Tôi đi học (Thanh Tịnh)
Truyện
ngắn
1941
Tự sự, biểu cảm
Những kỷ niệm 
trong sáng về 
ngày đầu tiên đến 
trường.
Tự sự kết hợp với trữ tình; kể chuyện kết hợp miêu tả và biểu cảm, đánh giá; những hình ảnh so sánh mới mẻ và gợi cảm.
2
Trong lòng mẹ (Nguyên Hồng)
Hồi kí (trích)
1940
Tự sự, biểu cảm
Nỗi đau của chú 
bé mồ côi và tình yêu thương mẹ của chú bé.
Văn hồi ký chân
thực, trữ tình 
thiết tha
3
Tức nước vỡ bờ (Ngô Tất Tố)
Tiểu thuyết (trích)
1939
Tự sự
Phê phán chế độ 
tàn ác bất nhân và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng của người phụ nữ nông thôn.
Khắc hoạ nhân 
vật và miêu tả 
hiện thực một 
cách chân thực, 
sinh động.
4
Lão Hạc
 ( Nam Cao)
Truyện ngắn (trích)
1943
Tự sự, biểu cảm
Số phận bi thảm 
của người nông 
dân cùng khổ và 
nhân phẩm cao 
đẹp của họ.
Nhân vật được 
đào sâu tâm lý, 
cách kể chuyện 
tự nhiên, linh 
hoạt, vừa chân 
thực vừa đậm 
chất triết lý và 
trữ tình.
3.2.2. Trò chơi: Đọc thơ (hoạt động cá nhân):
 * Đặc điểm:
Học sinh thường sợ đọc thuộc lòng các bài thơ hay đoạn thơ. Nhưng với trò chơi
này sẽ giúp học sinh hứng thú hơn và thuộc thơ nhanh hơn. Hoạt động này nên sử dụng sau những tiết học xong bài thơ hoặc ca dao.
 * Chuẩn bị.
 - Sau khi học xong bài thơ, giáo viên cho học sinh nhẩm lại bài thơ.
 - Học sinh nhẩm lại các câu thơ trong bài thơ vừa học xong.
 * Ví dụ:
TIẾT 117: VIẾNG LĂNG BÁC CỦA VIỄN PHƯƠNG (Ngữ văn 9)
 - Sau khi học xong bài thơ này, giáo viên cho học sinh nhẩm lại và sau đó tiến
hành thực hiện trò chơi.
 - Giáo viên đọc trước một câu: 
 “ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
 - Sau đó yêu cầu học sinh đọc câu thơ tiếp theo:
 “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”.
 - Học sinh vừa đọc xong thì có quyền chỉ định một bạn bất kỳ trong lớp đọc tiếp các câu còn lại của bài thơ .
 - Tương tự thực hiện cho đến khi hết bài thơ hoặc có yêu cầu dừng của giáo viên.
 - Bạn nào đọc sai sẽ làm một hoạt động do lớp hoặc giáo viên yêu cầu.
 3.2.3. Trò chơi: Thuyết minh biểu tượng (hoạt động nhóm):
 * Đặc điểm: 
 Trò chơi này kích thích khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng và khả năng diễn đạt của học sinh. Nó cũng đơn giản, thích hợp với nhiều giờ học tập làm văn. Mục đích chủ yếu của trò chơi này là kỹ năng làm văn, đặc biệt là đối với văn thuyết minh.
 * Cách tiến hành:
 - Giáo viên chia học sinh thành các nhóm (4-10 học sinh, trong đó nên có một số học sinh có năng khiếu về hội hoạ). 
 - Mỗi nhóm sẽ vẽ một bức tranh biểu tượng trong khoảng thời gian quy định sau đó thuyết minh ý nghĩa của nó.
 - Từng nhóm lên thuyết trình về biểu tượng của nhóm mình.
 - Các nhóm khác đặt câu hỏi phản biện với nhóm thuyết trình.
 - Giáo viên cần tìm ra một ban giám khảo: Giáo viên và một số học sinh trong
lớp.
 -> Lưu ý: Trò chơi này do học sinh thực hiện theo ý tưởng riêng của nhóm, cho
nên ban giám khảo cần nhìn nhận và đánh giá cho phù hợp, không nên đánh giá
theo ý kiến chủ quan. Với dạng trò chơi này thì cũng có thể áp dụng cho học sinh làm đồ vật sau đó thuyết trình.
 * Ví dụ:
 TIẾT 54 - LUYỆN NÓI: THUYẾT MINH VỀ MỘT THỨ ĐỒ DÙNG. 
(Ngữ văn 8)
 - Giáo viên chia học sinh thành các nhóm và yêu cầu mỗi nhóm vẽ một đồ vật
bất kỳ trong gia đình và giới thiệu về đồ vật đó.
 - Các nhóm sẽ vẽ đồ vật theo ý thích và thuyết trình về đặc điểm, công dụng của đồ vật đó trong gia đình.
 - Khi trình bày, giáo viên nên cho học sinh treo tranh lên và giới thiệu.
 3.2.4. Trò chơi: Ô chữ (hoạt động nhóm hoặc cá nhân):
 * Đặc điểm:
Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì thế, nó mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng Việt.
 *Chuẩn bị:
 - Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hang ngang, học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc – Đây là ô chính mà nội dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ được.
 - Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị từ bảng phụ. Để trò chơi mới lạ hơn, giáo viên yêu cầu học sinh tự làm hoặc có thể áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra phần mềm trò chơi.
 * Ví dụ:
TIẾT 26 - TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU (Ngữ văn 9)
 - Dạy xong bài này, giáo viên cho học sinh tham gia vào trò chơi. Giáo viên chia ra nhóm hoặc cá nhân.
 - Yêu cầu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm truyện Kiều cũng như các nhân vật trong truyện. Đặc biệt, khi kết thúc trò chơi học sinh phải nắm được một trong hai giá trị lớn của Truyện Kiều đó là “giá trị nhân đạo”.
 - Giáo viên treo bảng phụ và lần lượt nêu ra các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ nhóm 1. Các nhóm có quyền lựa chọn ô hàng ngang. Nếu nhóm nào không trả lời được theo thời gian quy định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi.
 - Nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc.
 - Cụ thể: Bảng ô chữ, câu hỏi và đáp án như sau:
+ Bảng ô chữ:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
+ Câu hỏi:
Hàng ngang 1. Tác giả của “Truyện Kiều” là ai?
Hàng ngang 2. Thuý Kiều phải làm gì khi gia đình bị vu oan, cha bị bắt.
Hàng ngang 3. Từ Hải đã giúp Thuý Kiều làm gì?
Hàng ngang 4. Em gái của Thuý Kiều tên là gì?
Hàng ngang 5. Khi đi du xuân, Thuý Kiều đã gặp và phải lòng ai?
Hàng ngang 6. Ai là người đến mua Thuý Kiều?
Hàng ngang 7. Đây là quê hương của tác giả Nguyễn Du.
Hàng ngang 8. Nguyễn Du có tên hiệu là gì?
Hàng ngang 9. Năm 1965, Nguyễn Du được công nhận là:
Hàng ngang 10. Truyện Kiều được viết dựa trên tác phẩm nào?
Hàng ngang 11. Nguyễn Du được coi là?
Hàng ngang 12. Phần cuối trong phần tóm tắt của Truyện Kiều có tên là gì?
Hàng ngang 13. Truyện Kiều còn có tên gọi khác là gì?
+ Đáp án: 
1 N G U Y E N D U
2 B A N M I N H
3 B A O A N B A O O A N
4 T H U Y V A N
5 K I M T R O N G
6 M A G I A M S I N H
7 H A T I N H
8 T H A N H H I E N
9 D A N H N H A N V A N H O A
10 K I M V A N K I E U T R U Y E N
11 D A T H I H A O
12 D O A N T U
13 D O A N T R U O N G T A M T H A N H
3.2.5. Trò chơi: đóng vai ( hoạt động tập thể)
* Đặc điểm:
Trò chơi này luôn được học sinh đón nhân nhiệt tình và hứng khởi bởi các em được hóa thân vào các nhân vật trong các tác phẩm truyện và cảm nhận được diễn biến tâm lí của nhân vật một cách sâu sắc hơn và cũng tự nhiên tiếp nhận nội dung của văn bản một cách nhanh nhất nhưng quan trọng hơn cả là phần sau đó khi các em đã đóng vai các nhân vật các em sẽ bày tỏ ý kiến về các nhân vật đó hoặc nội dung cốt truyện mà các em đã diễn lại. Chính từ điều này, trò chơi sắm vai mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ Văn học hoặc đôi khi có thể áp dụng trong giờ tiếng Việt ( ví dụ khi dạy chủ đề hội thoại trong chương trình Ngữ văn lớp 8).
 *Chuẩn bị:
- Giáo viên hoặc học sinh chuyển thể văn bản văn học thành kịch bản có lời thoại, hoặc tự nghĩ ra những đoạn đối thoại sau đó nhẩm thuộc lời thoại và tiến hành các hành động phù hợp.
- Giáo viên hoặc học sinh sẽ nghĩ ra những câu hỏi phù hợp với đoạn tiểu phẩm mà các bạn đã sắm vai.
- Học sinh sẽ chuẩn bị tâm thế để trả lời những câu hỏi sau phần diễn của các bạn.
 * Ví dụ:
TIẾT 45:
Ý NGHĨA CỦA NHỮNG BÀI HỌC NGỤ NGÔN TRONG CUỘC SỐNG
( Ngữ văn 6)
GV: Ở tiết trước cô đã giao nhiệm vụ cho nhóm 2 xây dựng 1 tình huống liên quan đến một trong các truyện ngụ ngôn mà chúng ta đã được tìm hiểu ở tiết học trước. Cô mời phần thể hiện của nhóm hai
Nhóm hai đóng một vở kịch gồm 3 nhân vật.
Nội dung:
Bác Thắng là một người có tính tự cao tự đại, luôn luôn cho rằng việc gì mình cũng biết và chảng cần ai chỉ bảo. 
Hai bạn nhỏ Lan và Mai là hai học sinh giỏi và cũng là hàng xóm, sát vách nhà bác Thắng.
Một lần, hai bạn đang trừ sâu bệnh cho vườn nhà mình thì bác Thắng cũng đang làm vườn.
Lan: Bác ơi! Bác có cần chúng cháu giúp gì không ạ?
Bác Thắng: Xời, chúng mày thì biết gì mà giúp. Thôi, đi chỗ khác chơi cho rảnh tay tao còn đang bận diệt sâu cho cây đây. Dạo này sâu nhiều quá, nó cắn phá kinh khủng, cây chẳng lên nổi. Thôi, đi chỗ khác chơi, nhanh.
Lan quay sang Mai: Chúng mình vừa học về các biện pháp diệt sâu tự nhiên mà không cần dùng thuốc đúng không? Hay mình bảo cho bác ấy.
Mai: Bác ơi! Chúng cháu biết cách diệt sâu hại, chúng cháu được học rồi mà. 
Bác Thắng: Học được tí chữ ra vẻ ta đây. Tao làm vườn cả đời rồi mà còn không biết à! Không khiến, đi chỗ khác chơi.
Hai bạn đành tiếp tục việc trong vườn nhà mình. 
Một tuần sau, sâu bệnh lây ra cả khu vườn và vụ mùa thất thu tỏng khi đó thấy vườn của nhà hai chị em Mai và Lan vẫn rất tươi tốt, bác Thắng thấy hối hận.
Sau khi học sinh diễn xong, giáo viên hỏi:
(?) Trong tình huống có những nhân vật nào? Em có nhận xét gì về các nhân vật trong tiểu phẩm mà các bạn vừa diễn?
(?) Với những nét tính cách đó ông hàng xóm đã phải chịu hậu quả ntn?
(?) Con thấy tính cách của nhận vật Thắng giống với tính cách của nhân vật nào trong truyện ngụ ngôn mà chúng ta đã học?
(?) Theo em có cách nào để ông hàng xóm ấy tránh được hậu quả trên không?
GV chốt 
 Các con ạ! Trong cuộc sống chúng ta không nên chủ quan, kiêu ngạo mà phải biết khiêm tốn học hỏi , mở mang tầm hiểu biết. Nếu chúng ta coi thường những đối tượng xung quanh thì sẽ có lúc chúng ta chịu những hậu quả đáng tiếc như con ếch trong câu chuyện “Ếch ngồi đáy giếng” mà chúng ta đã được tìm hiểu.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
 Qua thời gian giảng dạy, đặc biệt là những tiết có sự vận dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học, tôi nhận thấy kết quả đạt được rất đáng khích lệ. Cụ thể: Qua quá trình áp dụng những trò chơi vào các tiết dạy học Ngữ văn ở THCS, tôi nhận thấy rằng: Trò chơi là một hoạt động bổ trợ cho việc dạy Ngữ văn. Hoạt động này thiên về chơi nên nó xoá đi sự nặng nề. Học sinh được tiếp nhận nhiều kiến thức, kỹ năng qua những hoạt động dễ dàng, gây hứng thú. Chính vì lẽ đó mà những học sinh đã được học qua những tiết dạy có áp dụng trò chơi không chỉ có cơ hội tìm hiểu, ôn tập kiến thức mà còn thể nghiệm hành vi, rèn luyện kỹ năng, sự tư duy, phản ứng nhanh. Các em được rèn khả năng quyết định lựa chọn các phương án đúng, cách giải quyết tình huống hợp lí. Đây là bài học thực tế trước khi học sinh rút ra kết luận, lý thuyết trừu tượng. Trò chơi cũng là biện pháp tăng cường sự phấn đấu tích cực trong từng cá nhân hoặc trong nhóm học sinh. Tổ chức trò chơi theo nhóm còn giúp tăng cường hoạt động làm việc nhóm, từ đó phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh.
Như vậy so với thời điểm mà tôi chưa áp dụng phương pháp hoạt động nhóm và tổ chức trò chơi trong giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng: nếu như trước đây các em học sinh có vẻ rất lo ngại mỗi khi đến tiết Ngữ văn thì bây giờ các em rất hồ hởi và phấn khởi đón nhận tiết học. Bởi lẽ, từ sự thích thú, yêu mến môn học này đã giúp các em chăm chỉ học tập và kết quả học tập ngày càng tốt hơn. 
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
 	Hiện nay việc trình bày sáng kiến kinh nghiệm được phổ biến trong nhiều lĩnh vực, trong nhiều ngành nghề, trong nhiều cấp bậc khác nhau. Chính vì thế đã có rất nhiều sáng kiến kinh nghiệm ra đời để trao đổi kinh nghệm ở các khía cạnh đó. Với công tác hiện tại của mình là giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS nên tôi cũng đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm “ Tạo sự hứng thú cho học sinh thông qua hoạt động trò chơi trong dạy học Ngữ văn THCS” và đã đạt được những hiệu quả nhất định.
 Những kinh nghiệm tr

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_thong_qua_tro_ch.docx