Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 9

Chương trình Tập Làm Văn lớp 9 được học theo nguyên tắc đồng tâm với các lớp dưới. Nội dung của nó là nâng cao nhằm mở rộng và khắc sâu thêm các kiểu văn bản đã học ở các lớp 6, 7, 8. Ở lớp 6, các em đã được làm quen với hai kiểu văn bản chính: Tự sự và miêu tả; ở lớp 7 là văn bản biểu cảm và nghị luận. Ở lớp 8, môn Ngữ Văn hướng dẫn các em về một kiểu văn bản rất gần gũi với đời sống là thuyết minh, đồng thời các em lại được rèn phương pháp làm văn nghị luận nâng cao hơn. Đó là sự kết hợp các yếu tố nghị luận với biểu cảm, tự sự và miêu tả. Lên lớp 9, môn Ngữ Văn lại tiếp tục giúp các em làm văn thuyết minh hay hơn (thuyết minh có kết hợp các biện pháp nghệ thuật, kết hợp với các yếu tố miêu tả), làm văn tự sự hay hơn (tự sự có yếu tố lập luận, tự sự kết hợp với miêu tả nội tâm, đối thoại và độc thoại trong tự sự, người kể và ngôi kể trong văn tự sự) đồng thời, làm văn nghị luận sẽ thuần thục hơn (nghị luận xã hội, nghị luận văn học, )

doc 34 trang Chí Tường 21/08/2023 5000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 9

Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 9
m và lập luận
- Về xuất phát điểm:
+ Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống: Xuất phát từ sự thực đời sống mà nêu ra tư tưởng, bày tỏ thái độ.
+ Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí: Xuất phát từ tư tưởng đạo lí sau khi giải thích, phân tích thì vận dụng cái sự thực đời sống để chứng minh nhằm trở lại (khẳng định hay phủ định) một tư tưởng nào đó.
- Về lập luận:
+ Nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống: chủ yếu sử dụng phép lập luận phân tích, tổng hợp.
+ Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí: lí lẽ nhiều hơn, các phép lập luận giải thích, phân tích, chứng minh thường được sử dụng nhiều hơn.
* Giống nhau:
- Đều bàn về những vấn đề thuộc lĩnh vực văn học như truyện, thơ.
- Trình bày nhận xét, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học (truyện, đoạn trích truyện, bài thơ, đoạn thơ).
- Bố cục: Mạch lạc, rõ ràng, lời văn gợi cảm.
* Khác nhau:
- Tác phẩm truyện hoặc đoạn trích:
• Nội dung: Có thể là:
+ Chủ đề
+ Cốt truyện
+ Nhân vật
• Nghệ thuật: thường là tạo dựng tình huống, xây dựng nhân vật, giọng điệu, các biện pháp tu từ.
 - Đoạn thơ bài thơ:
• Nội dung: ý nghĩa của câu thơ, đoạn thơ, bài thơ.
• Nghệ thuật: Thường là ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu, cách ngắt nhịp, gieo vần, các biện pháp tu từ, thể thơ 
*Giống nhau:
- Đều thuộc thể loại văn nghị luận.
* Khác nhau:
- Nghị luận xã hội: Bàn về những vấn đề thuộc lĩnh vực đời sống xã hội.
- Nghị luận văn học: Bàn về những vấn đề thuộc lĩnh vực văn học.
2, Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức để nhận diện đoạn văn nghị luận:
Nhận biết được một đoạn văn nghị luận, nêu được những đặc trưng cơ bản của đoạn văn nghị luận là yêu cầu đầu tiên đối với mỗi học sinh. Trong bài tìm hiểu chung về mỗi kiểu bài nghị luận ở lớp 9, các em đã hiểu được những kiến thức cơ bản về từng kiểu bài. Để củng cố và khắc sâu hơn những kiến thức đó, tôi đã đưa ra các bài tập sau:
Bài tập1: Cho các đoạn văn sau:
Đoạn văn 1: “Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe. Chính vì trong thuốc lá có chứa chất nicôtin, đây là một chất gây nghiện mà khi chúng ta dùng sẽ tạo ra một thói quen cho thần kinh để đến khi không có nó thì người hút thuốc sẽ cảm thấy rất khó chịu, mỏi mệt và có cảm giác thèm. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nghiện thuốc. Khi hút thuốc vào, thuốc lá không làm ảnh hưởng đến sức khỏe ngay, nhưng để lâu, vì nghiện nên khói thuốc mang hơi độc nicôtin qua hệ hô hấp, làm chức năng lọc bụi của lớp lông nhung và mạch mao tích độc trong phổi, tạo cảm giác khó thở, lâu ngày sẽ tạo các khối u ở phế nang, gây ra các bệnh như: Ung thư phổi, phế quản, dãn phế nang, nhồi máu cơ tim  Theo dự báo của tổ chức y tế thế giới thì đến 2020, số người chết vì thuốc lá sẽ cao hơn số người chết do HIV/AIDS, bệnh lao và tai nạn giao thông cộng lại. Đây quả thật là con số đáng báo động!”
 (Cao Bích Xuân)
Đoạn văn 2: Tình cảm của người nông dân này dành cho cách mạng, cho kháng chiến chân thành, sâu sắc vô cùng. Câu chuyện của ông Hai bây giờ chỉ xoay quanh về kháng chiến, cách mạng, về tự vệ làng ông. Tình yêu làng, yêu nước hòa quyện trong con người ông Hai ngày càng rõ rệt. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây, ông Hai “cổ nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Trước hết đó là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng Chợ Dầu vẫn là nơi ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ  ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Sau ý nghĩ đó ông gạt phát đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng Chợ Dầu lóe lên như một tia hy vọng nhưng rồi lại tắt ngấm. Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông xong trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến. Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã tự thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy, nhưng làng theo tây thì phải thù  Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”
(Nguyễn Hương Thúy)
Đoạn văn 3: Ca dao, tục ngữ xưa thật giàu hình ảnh và hữu ý! Mỗi câu đọc lên sao bình dị mà vẫn sâu sắc, như câu tục ngữ dưới đây chẳng hạn:
“Đất rắn trồng cây khẳng khiu
Những người thô tục nói điều phàm phu”.
Mở đầu bằng một hình ảnh sự vật rất giản dị “đất” và “cây”. Người xưa đã xây dựng nên một mối quan hệ nhân quả thật sâu sắc: “Đất rắn” và “cây khẳng khiu”. Có người nói điều này thật bình thường, tất nhiên, cây mọc trên đất không tốt sẽ khẳng khiu và trơ trụi là phải thôi. Nhưng cái hữu ý mà nghệ sĩ dân gian gửi tới chúng ta chính là: Bản chất của đất không cần kiểm tra hay xét lọc gì mà chỉ cần nhìn những bụi cây ngọn cỏ ở trên đó ta có thể thấy được đất tốt hay không tốt. Cũng như ở câu sau: “Những người thô tục nói điều phàm phu”. Bằng cách so sánh ngầm: Những con người “thô tục” cũng như “đất rắn” đã bộc lộ ngay bản chất, cái bản chất dù có giấu kín tới cỡ nào, nhưng “thô tục” tất dẫn đến “phàm phu”. Tục ngữ, ca dao xưa vốn ý nhị mà sâu sắc, nên điều mà tác giả xưa muốn nói không phải là cái sự vật mà chính là cái ý nghĩa bóng bẩy mà tác giả gửi gắm trong sự vật ấy. Những bản chất xấu hay tốt bộc lộ qua hành động, suy nghĩ và lời nói.
	 (Phan Quỳnh Hoa)
Đoạn văn 4: Cảnh tượng đoàn thuyền ra khơi thật là đẹp, màu sắc ấm áp, âm thanh rộn ràng. Cảnh buổi chiều trên vùng biển được miêu tả qua cái nhìn của dân chài đó là nhìn thấy “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” tạo ra vẻ đẹp lộng lẫy và huyền ảo. Nhưng điều mà làm cho bài thơ của Huy Cận đáng chú ý đó là cách nói hết sức độc đáo, mới lạ. Tả mặt biển khi màn đêm xuống “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Tác giả dùng biện pháp nhân hóa để người đọc cảm nhận được biển trở thành ngôi nhà khổng lồ vừa có cửa đóng, then cài thì cũng là lúc “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vừa lạc quan, vui tươi, yêu đời như trở về ngôi nhà ấm áp, an toàn.
	(Nguyễn Tuấn Anh)
Đoạn văn 5: Khu di tích Đền Hùng gồm Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ, Lăng Vua Hùng thứ 6, Đền Giếng ở phía Đông Nam dưới chân núi Nghĩa Lĩnh (vì trong đền có Giếng Ngọc, nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa là hai con gái của vua Hùng thứ 18 thường soi giếng để chải tóc, vấn khăn nên được gọi là đền Giếng).
	 (Hùng Cường)
a.Trong các đoạn văn trên, đoạn văn nào là đoạn văn nghị luận?
b.Phương thức biểu đạt của mỗi đoạn văn là gì?
c.Vấn đề nghị luận của các đoạn văn vừa tìm được ở phần a là gì?
d.Các đoạn văn nghị luận nêu luận điểm chính nào?
Dựa vào các kiến thức đã học ở trên lớp, học sinh dễ dàng nhận thấy:
Những đoạn văn nghị luận:
Đoạn văn 1: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
Đoạn văn 2: Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
Đoạn văn 3: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý.
Đoạn văn 4: Nghị luận về một đoạn thơ bài thơ.
Vấn đề nghị luận:
Đoạn văn 1: Tác hại của việc hút thuốc lá.
Đoạn văn 2: Nhận xét, đánh giá về tình cảm dành cho Cách mạng, cho Kháng chiến của ông Hai (Truyện “Làng” – Kim Lân)
Đoạn văn 3: Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ: “Đất rắn trồng cây khẳng khiu - Những người thô tục nói điều phàm phu”
Đoạn văn 4: Nhận xét, đánh giá về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá (Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận).
Các luận điểm chính:
Đoạn văn 1: Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe.
Đoạn văn 2: Tình cảm của ông Hai dành cho Cách mạng, cho Kháng chiến chân thành, sâu sắc vô cùng.
Đoạn văn 3: Ca dao, tục ngữ xưa thật giàu hình ảnh và hữu ý.
Đoạn văn 4: Cảnh tượng đoàn thuyền đánh cá ra khơi thật đẹp.
Cả 4 đoạn văn trên đều được viết theo phương thức biểu đạt nghị luận.
3, Nhận diện đề văn nghị luận:
Dựa vào những hiểu biết về văn nghị luận nói chung, về từng kiểu bài văn nghị luận nói riêng, tôi thường tập cho học sinh các thói quen, có kỹ năng nhận diện một cách nhanh nhất, chính xác nhất về từng kiểu bài văn nghị luận.
Ví dụ: Trong những đề bài sau, đề bài nào là đề bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống, đề bài nào là đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý, đề bài nào là đề bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, đề bài nào là đề bài nghị luận về đoạn thơ bài thơ?
Đề 1: Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng việc học và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của em về hiện tượng đó.
Đề 2: Xuyên suốt bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy là hình tượng ánh trăng.
Đề 3: Suy nghĩ của em về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua hình tượng nhân vật Vũ Nương (“Chuyện người con gái Nam Xương” - Nguyễn Dữ).
Đề 4: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Đề 5: Suy nghĩ của em về lời dạy trong câu ca dao sau:
“Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”
Đề 6: Cảm nhận của em về đoạn truyện “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.
Đề 7: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Với bảy đề nêu trên, học sinh dễ dàng nhận biết:
+ Đề 1: Đề nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
+ Đề 2, 4: Đề nghị luận về một đoạn thơ bài thơ.
+ Đề 5 : Đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý.
+ Đề 3, 6, 7: Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
4, Thực hiện các bước khi làm một đề bài cụ thể:
4.1. Tìm hiểu đề và tìm ý:
* Tìm hiểu đề: Để làm bài đúng thể loại, đúng với yêu cầu của đề bài, học sinh phải có kỹ năng tìm hiểu đề bài một cách thành thạo. Đây là một vấn đề đơn giản, học sinh thường hay coi nhẹ nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của bài làm. Bởi nếu bỏ qua hoặc tìm hiểu đề bài không đúng, người viết dễ làm bài lạc đề, không đúng yêu cầu của đề bài ... mà đã lạc đề thì bài làm coi như không đạt yêu cầu. Chính vì thế, khi luyện viết bất kì một đề bài tập làm văn nào, tôi cũng hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bằng hệ thống các câu hỏi như: Đề bài yêu cầu viết bài văn theo thể loại nào? Nội dung vấn đề nghị luận là gì? Cần có những tư liệu nào để làm bài? Với các câu hỏi đó, học sinh có thể dễ dàng nhận rõ yêu cầu cụ thể của từng đề bài để từ đó có định hướng chính xác cho bài làm của mình.
Ví dụ:
Đề 1: Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng. Ngồi bên hồ dù là hồ đẹp nổi tiếng, người ta cũng tiện tay vứt rác xuống. Em hãy đặt một nhan đề để gọi ra hiện tượng ấy và viết bài văn nêu suy nghĩ của mình.
Thể loại: Nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống.
Yêu cầu nội dung: Đặt nhan đề, viết bài văn.
Tri thức cần có: Hiểu biết về đời sống thực tế.
Đề 2: Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng việc học tập và còn vi phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của em về hiện tượng đó.
Thể loại: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
Yêu cầu nội dung: Nêu ý kiến về sự hấp dẫn và tác hại của trò chơi điện tử.
Tri thức cần có: Hiểu biết đời sống thực tế.
Đề 3: Suy nghĩ về đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Thể loại: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý.
Yêu cầu về nội dung: Suy nghĩ về đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Tri thức cần có:
+ Hiểu biết về tục ngữ Việt Nam.
+ Vận dụng các tri thức về đời sống.
Đề 4: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời Kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thể loại: Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
Yêu cầu về nội dung: Suy nghĩ về chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời Kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tri thức cần có:
+ Hiểu biết về tác giả Kim Lân.
+ Hiểu biết về truyện “Làng”.
Đề 5: Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
Thể loại: Nghị luận về một đoạn thơ bài thơ.
Yêu cầu về nội dung: Cảm nhận và suy nghĩ về tình cảm cha con trong bài thơ “Nói với con”.
Tri thức cần có:
+ Hiểu biết về tác giả Y Phương.
+ Hiểu biết về bài thơ “Nói với con”.
Qua một số bài tập trên, học sinh sẽ không cảm thấy khó khăn khi phải tìm hiểu đề. Hơn nữa, chỉ qua một số bài tập, học sinh sẽ có kỹ năng thành thạo, đọc xong đề là xác định ngay được thể loại và yêu cầu cần làm.
* Tìm ý cho văn nghị luận:
Đây là bước học sinh thường hay lúng túng, không biết dựa vào đâu và tìm ý như thế nào? Vì thế trong quá trình lựa chọn hệ thống bài tập để rèn luyện kỹ năng viết văn nghị luận cho học sinh, tôi luôn bám sát chương trình sách giáo khoa, lựa chọn những vấn đề đơn giản, gần gũi để học sinh dễ nhận biết. Sau khi đã xác định được thể loại, nội dung vấn đề nghị luận mà đề bài yêu cầu, tôi cũng hướng dẫn học sinh tìm ý bằng cách đưa ra một hệ thống câu hỏi gợi mở như: Dựa vào đâu để tìm ý cho đề bài trên? Muốn tìm ý cho bài văn, cần phải làm gì? Cần đặt những câu hỏi như thế nào để có ý cho bài văn? Với những câu hỏi ấy, học sinh có thể dễ dàng tìm ra ý chính cho bài văn.
Ví dụ:
Đề 1:
- Cơ sở để tìm ý:
+ Nội dung và cách làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
	+ Vấn đề nghị luận.
	+ Yêu cầu của đề bài.
- Đặt câu hỏi để tìm ý: Sự việc, hiện tượng này thường diễn ra ở đâu? Biểu hiện cụ thể như thế nào? Nguyên nhân nào dẫn tới hiện tượng đó? Vứt rác bừa bãi có lợi hay có hại? Cái lợi (hại) đó là gì? Em có thái độ, ý kiến gì về vấn đề đó?
Đề 2:
- Cơ sở để tìm ý:
+ Nội dung và cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
+ Vấn đề nghị luận.
+ Yêu cầu của đề bài.
- Đặt câu hỏi để tìm ý: Trò chơi điện tử hấp dẫn như thế nào? Ham chơi điện tử sẽ dẫn tới hậu quả ra sao? Nguyên nhân của hiện tượng đó là gì? Có cách nào để giải quyết hiện tượng này?
Đề 3:
- Cơ sở để tìm ý:
+ Nội dung và cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý.
+ Vấn đề nghị luận.
+ Yêu cầu của đề bài.
- Đặt câu hỏi để tìm ý: Câu tục ngữ có ý nghĩa như thế nào? (Nghĩa đen và nghĩa bóng) Nội dung câu tục ngữ thể hiện truyền thống đạo lý gì của con người Việt Nam? Ngày nay, đạo lý ấy có ý nghĩa như thế nào?
Đề 4:
- Cơ sở để tìm ý:
+ Nội dung và cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
+ Yêu cầu của đề bài.
+ Truyện “Làng”.
- Đặt câu hỏi để tìm ý: Cái nét nổi bật nhất ở nhân vật ông Hai? Nét chuyển biến mới trong tình cảm của nhân vật ông Hai là gì? Trước Cách mạng Tháng Tám, sau Cách mạng Tháng Tám, khi nghe tin làng Chợ Dầu làm việt gian theo Tây, tình cảm của ông Hai được thể hiện như thế nào?
Đề 5:
- Cơ sở để tìm ý:
+ Nội dung và cách làm bài nghị luận về đoạn thơ bài thơ.
+ Yêu cầu của đề bài.
+ Bài thơ “Nói với con”.
- Đặt câu hỏi để tìm ý: Tình cha con được thể hiện qua hình thức nào? Người cha nói với con những gì và nói như vậy nhằm mục đích gì? Người cha dặn dò con như thế nào? Qua lời tâm tình dặn dò của người cha, em hiểu được gì ở tình cảm của người cha?
Tìm ý trong văn nghị luận là một bước quan trọng để học sinh hình dung, cảm nhận cụ thể vấn đề nghị luận. Được rèn luyện nhiều, học sinh sẽ cảm thấy không còn khó khăn, phức tạp khi tìm ý cho bài văn nghị luận.
4.2. Lập dàn ý:
Lập dàn ý là một bước quan trọng được thực hiện sau khi đã xác định được ý chính cho bài văn. Đây là công đoạn sắp xếp các ý vừa tìm được theo một trình tự hợp lý trong bố cụ ba phần của một văn bản. Trình tự sắp xếp các ý phụ thuộc vào nội dung, cách làm của từng kiểu bài và yêu cầu của từng đề bài cụ thể. Để rèn kỹ năng lập dàn ý cho học sinh, tôi đưa ra các dạng bài tập khác nhau để tránh sự nhàm chán như: lập dàn ý cho một đề bài cụ thể hoặc đưa ra một dàn ý bị sắp xếp lộn xộn rồi yêu cầu học sinh nhận xét, sắp xếp lại hoặc đưa ra một dàn ý chưa đầy đủ rồi yêu cầu học sinh nhận xét, bổ sung;...
Ví dụ:
Bài tập 1: Lập dàn ý cho đề 1 (phần tìm ý)
Trên cơ sở đã tìm hiểu đề và tìm ý cho đề bài này, các em học sinh dễ dàng lập được một dàn ý như sau:
1) Mở bài:
Giới thiệu hiện tượng vứt rác bừa bãi.
2) Thân bài:
Những biểu hiện của hiện tượng vứt rác bừa bãi trong đời sống hiện nay.
Những nguyên nhân dẫn đến việc vứt rác bừa bãi.
+ Do thói quen mất vệ sinh, cẩu thả.
+ Do sự ích kỷ, không quan tâm đến lợi ích chung.
+ Do chưa hiểu rõ tác hại của việc vứt rác bừa bãi.
+ Do khách quan: Tổ chức thu gom rác, thùng rác.
Tác hại của việc vứt rác bừa bãi:
+ Gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
+ Làm mất mĩ quan, ảnh hưởng đến cảnh quan chung.
+ Tạo thói quen xấu.
Đề xuất hướng giải quyết vấn đề:
+ Về phía cá nhân.
+ Về phía các nhà tổ chức, kinh doanh, dịch vụ.
+ Về phía các nhà quản lý, các nhà hoạt động vì môi trường.
3) Kết bài:
Cuộc sống văn minh, hiện đại đòi hỏi con người phải biết giữ gìn vệ sinh chung.
Bài tập 2: Khi lập dàn ý cho đề 2 (phần tìm ý), có bạn đã làm như sau:
1) Mở bài:
- Giới thiệu sơ lược sự hấp dẫn và tác hại của trò chơi điện tử đối với học sinh
2) Thân bài:
a. Trò chơi điện tử đang là món tiêu khiển hấp dẫn đến mức nhiều bạn đã mải chơi, sao nhãng việc học tập và còn vi phạm những sai lầm khác.
- Trò chơi điện tử có mặt ở mọi nơi, từ thành phố tới thôn quê.
- Số lượng cửa hàng dịch vụ trò chơi điện tử rất nhiều.
- Học sinh ham chơi điện tử, quên cả học hành, kết quả học tập giảm sút.
- Mải chơi điện tử cần tiền hoặc quen với bạn xấu qua mạng ... bị rủ rê và mắc phải tệ nạn xã hội ... tình trạng báo động.
b. Nguyên nhân của những hiện tượng trên:
- Bản thân trò chơi điện tử hấp dẫn, dễ bị mê mải đến quên thời gian.
- Cái chính là do ý thức tự giác của các bạn chưa cao.
- Nhiều gia đình quản lý con chưa tốt.
3) Kết bài:
- Trò chơi điện tử đang diễn ra lan tràn trong xã hội đòi hỏi những người có trách nhiệm cần quan tâm.
 Em có nhận xét gì về dàn ý trên?
Với những hiểu biết về kiểu bài nghị luận về một sự việc viện tượng đời sống học sinh dễ dàng nhận thấy dàn ý trên chưa đầy đủ còn thiếu phần “phương hướng giải quyết khắc phục”
Bài tập 3: Em hãy nhận xét về dàn ý của đề bài: Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương
1) Mở bài:
- Giới thiệu nhà thơ Y Phương và bài thơ “con cò”.
- Bài thơ thể hiện tình cảm cha con thắm thiết qua lời tâm tình dặn dò của người cha
2) Thân bài:
 a. Cha nói với con về quê hương, về “người đồng mình”
- Cuộc sống của “người đồng mình” thưong lắm bởi vất vả, gian nan.
- Nhưng người đồng mình sống đẹp
+ Sức sống mạnh mẽ, vất vả nhưng khoáng đạt, gắn bó với quê hương.
+ Mộc mạc, chân chất nhưng giàu ý chí, niềm tin; mong xây dựng quê hương tốt đẹp.
b. Cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương đối với con.
- Đó là hạnh phúc được sống trong sự yêu thương của cha mẹ. Cha mẹ đã dìu dắt, nâng đỡ em bước đi đầu tiên, tìm thấy niềm vui từ nôi con.
- Đó là hạnh phúc được sống giữa “người đồng mình”. Nhưng con người “yêu lắm” bởi họ khéo tay, yêu thiên nhiên, lạc quan và nhân hậu. Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương như vậy.
Nói với con những điều ấy, cha cho con hiểu những tình cảm cội, nguồn đã sinh dưỡng con để con yêu hơn cuộc sống.
c. Người cha dặn dò con
- Từ tình cảm gia đình quê hương nhà thơ nâng lên lẽ sống cho con.
- Ca ngợi nhunữg đức tính cao đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình
- Người cha muốn con hiểu, cảm thương cuộc sống còn khó khăn của quê hương, tự hào với truyền thống của quê hương để vững bước trên đường đời.
- Người cha trong bài thơ đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp, cho con một hành trang quí vào đời.
3) Kết bài:
- Bài thơ góp thêm tiếng nói yêu thương cũng như kì vọng của cha mẹ đối với con cái.
- Bài thơ thẻ hiện một cách độc đáo, thấm thía về tình cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người.
Với hiểu biết về kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ bài thơ, học sinh cũng dễ dàng nhận thấy dàn ý này bố cục chua hợp lí, sự nhận xét, đánh giá chưa tuân thủ đúng trình tự nội dung vốn có của bài thơ “Nói với con” cần thay đổi về vị trí của ý (a) và ý (b) trong phần thân bài đưa ý (a) lên trước và đưa ý (b) xuống sau. Thứ tự các ý trong phần thân bài phải là: b-a-c.
4.3. Rèn kỹ năng diễn đạt cho bài văn nghị luận:
a. Kỹ năng viết 

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_ren_ki_nang_viet_van_nghi_luan_cho_hoc_sin.doc