Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở thông qua giờ sinh hoạt lớp

 Rèn kĩ năng sống là một mặt giáo dục cần đặc biệt coi trọng và nhất là trong thập kỉ XXI khi sự nghiệp giáo dục đang được đẩy mạnh. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh đòi hỏi thường xuyên của công tác giáo dục đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng không kém quan trọng. Bằng nhiều hình thức, nhiều con đường, trong đó việc rèn kĩ năng sống chiếm một vị trí quan trọng. Qua việc rèn kĩ năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho các em. Đồng thời nó cũng định hướng cho các em rèn luyện hành vi và thói quen ứng xử tốt. Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của các em bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc, lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau; đó là lời nói không đi đôi với việc làm thì dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách.

doc 50 trang Chí Tường 20/08/2023 4040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở thông qua giờ sinh hoạt lớp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở thông qua giờ sinh hoạt lớp

Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở thông qua giờ sinh hoạt lớp
 bảng thành các phần tương ứng cho các nhóm và yêu cầu các học sinh cùng nhau quyết định đưa ra những mong muốn, hy vọng và quan tâm đối với mình trong thời gian tới. Sau đó ghi lại những phản hồi của từng cá nhân lên bảng, hoặc là thu lại những mảnh giấy của nhóm nhỏ và dán lên cho mọi người trong phòng đều thấy được. Tổng hợp lại những mong muốn của các học sinh, nêu ra điểm giống nhau về suy nghĩ, mong muốn của học sinh trong lớp. 
 Thông qua trò chơi trên, tôi muốn giáo dục cho HS kỹ năng biết lắng nghe, chia sẻ, mạnh dạn bày tỏ những quan điểm của mình, biết phâm biệt đúng sai
 Trò chơi : “Âm thanh cuộc sống” 
 Số lượng: từ năm em trở lên, có thể chơi trong nhóm nhỏ trước và mở rộng cho cả lớp 
 Luật chơi: Mỗi bạn sẽ được phát một cây viết và một tờ giấy. Trong vòng một phút, các bạn sẽ ghi lại tất cả những tiếng động xung quanh mình, ai ghi nhiều hơn, người đó sẽ thắng. 
 Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm rèn luyện kĩ năng lắng nghe, một trong những kĩ năng quan trọng nhất để làm việc nhóm hiệu quả, phản ánh sự tôn trọng hay xây dựng ý kiến lẫn nhau giữa các thành viên. Khi chịu lắng nghe, chắc chắn bạn sẽ có nhiều thông tin để giải quyết vấn đề hiệu quả hơn. 
 Trò chơi: “180 độ...xoay!”
 Số lượng: Lý tưởng nhất là 6 - 8 bạn 
 Luật chơi: Người chơi xếp thành hình tròn, quay mặt ra ngoài, tay nắm tay. Sau đó tìm cách đổi chỗ cho nhau, sao cho tất cả thành viên đều quay mặt vào trong hình tròn mà không được chéo tay nhau (trong quá trình đổi vị trí không được buông tay ra). 
 Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm trang bị cho các em kĩ năng "giải quyết vấn đề". Lúc đầu, có thể những người tham gia trò chơi này sẽ "bó tay" và cho rằng đây là công việc không thể thực hiện được. Nhưng khi được thảo luận, các bạn sẽ tìm ra giải pháp và thực hiện rất thành công. "Khi gặp một vấn đề nào đó trong cuộc sống, nếu tham khảo ý kiến của nhiều người, chắc chắn sẽ tìm ra được giải pháp tốt"- một bạn học sinh đã nói về "công dụng" của trò chơi mà bạn học được. 
 Trò chơi : “Chuyền bóng” 
 Số lượng: 10 bạn là tốt nhất. 
 Luật chơi: Người chơi xếp thành hình tròn với yêu cầu là phải biết tên của nhau. Lần lượt người chơi sẽ chuyền bóng cho người đối diện, rồi người tiếp theo theo chiều kim đồng hồ) cho đến hết vòng tròn. Khi chuyền bóng cho người nào, bạn phải gọi tên người đó. Lúc đầu, chỉ cần 1 trái bóng, sau đó tăng thêm 2, thêm 3, thêm 4 để gia tăng độ khó cũng như tốc độ chuyền. 
 Trò chơi sẽ kết thúc khi bóng chạm đất. Trò chơi này có thể có 2 - 3 nhóm 
tham gia, nhóm nào giữ bóng lâu chạm đất nhất sẽ giành phần thắng. 
 Ý nghĩa: Khi có 1 trái bóng, công việc của người chơi xem ra khá dễ dàng. Nhưng khi có nhiều trái bóng thì tình hình sẽ khác. Điều này cho thấy, với những vấn đề đơn giản, bạn có thể giải quyết một cách dễ dàng. Nhưng với vấn đề phức tạp, rắc rối hoặc cùng lúc xuất hiện nhiều vấn đề thì bạn cần biết ưu tiên giải quyết vấn đề nào trước, vấn đề nào sau, tránh để xảy ra tình trạng "ùn tắc", dễ dẫn bạn đến thất bại. Ngoài ra, sự bình tĩnh cũng là điều quan trọng khi đối mặt với những tình huống như vậy. 
 Trò chơi : “Truyền tin” 
 Thể loại: Trò chơi cảm giác, vận động nhẹ trong phòng và ngoài trời, khoảng 08 người tham dự. 
 Rèn luyện: Nhận định chính xác các cử điệu từ người khác. 
 Giáo dục: Tương trợ nhau, phải có sự nhanh nhẹn và hiểu ý nhau trong 
lời nói và hành động. 
 Luật chơi: Đứng thành từng đội và mỗi đội cử 01 người đến quản trò nhận bản tin, rồi trở về đứng cách những người của đội mình 1,5m và truyền lại bản tin đó bằng cử điệu mà không được nói, cũng như không được nhép miệng. Đội nào nhận được bản tin và thực hiện theo bản tin trước là thắng. 
 Mục đích: Gây bầu không khí sôi động để dẫn vào chiều sâu lắng sau đó. 
 Vật dụng: Các vật dụng của các bản tin. 
 Trên đây là một số trò chơi, trong quá trình thực hiện người GV cần sưu tầm thêm các trò chơi khác sao cho phù hợp với mục đích của mình. Sử dụng phương pháp này có rất nhiều ưu điểm tuy nhiên cũng tồn tại một số hạn chế cần khắc phục và một số điều cần lưu ý.
 Ưu điểm:
- Trò chơi là một hình thức giáo dục hấp dẫn HS do đó duy trì sự tập trung chú ý của các em.
- Giảm tính chất căng thẳng của giờ sinh hoạt.
- Thông qua trò chơi rèn được nhiều kỹ năng cho HS: kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian.
 Hạn chế:
- Tương đối mất thời gian
- HS dễ sa đà vào việc chơi mà ít chú ý đến tính chất giáo dục trong đó
 Một số điều cần lưu ý: 
 Sử dụng trò chơi vẫn là một phương pháp có nhiều ưu điểm, mang lại hiệu quả giáo dục cao nên để hạn chế những nhược điểm GV khi tổ chức cần lưu ý một số điểm sau:
Lựa chọn hoặc tự thiết kế trò chơi đảm bảo những yêu cầu:
 Mục đích của trò chơi phải thể hiện được nội dung giáo dục KNS hoặc một phần của chương trình.
 Hình thức chơi đa dạng, vừa kết hợp được hoạt động trí tuệ vừa kết hợp với các hoạt động vận động.
 Luật chơi đơn giản để HS dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các trò chơi có nhiều HS tham gia để rèn kĩ năng hợp tác.
 Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi.
 Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của tiết sinh hoạt để vừa làm cho học sinh hứng thú vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của bài học một cách có hiệu quả.
 Các trò chơi lặp đi lặp lại gây nhàm chán: giáo viên chủ nhiệm phải chuẩn bị trước và tham khảo thêm các trò chơi cho phù hợp, thay đổi nội dung sinh hoạt, không hẳn cứ sinh hoạt là chơi trò chơi. 
2.2. Phương pháp sắm vai
 Bản chất:
 Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
 Quy trình thực hiện
 Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau :
 Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai
 Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai
 Các nhóm lên đóng vai
 Lớp thảo luận, nhận xét, thường thì thảo luận bắt đầu từ cách ứng xử của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, nhưng sẽ mở rộng phạm vi xem thảo luận những vấn đề khái quát hơn hay những vấn đề và vở diễn chứng minh.
 Giáo viên kết luận 
 Minh họa cụ thể
 Chẳng hạn khi dạy kĩ năng “Nói lời yêu thương”, tôi đã xây dựng một kịch bản “Con đường về nhà”. Nội dung kịch bản nói về một bạn HS rất được gia đình yêu thương, quan tâm, chăm sóc. Nhưng khi nghe lời trách mắng của bố mẹ bạn đã bỏ nhà ra đi. Khi đi đến công viên, ở đây bạn chứng kiến rất nhiều những cảnh ngộ: một cậu bé đánh giầy vui vẻ với công việc của mình, một cô bé HS có những lời lẽ và cử chỉ đẹp với một người ăn xin và những lời nói chân thành, giản dị của cô bán bánh mì. Tất cả đã khiến bạn tỉnh ra và quyết định trở về nhà để xin lỗi bố mẹ. Khi về đến nhà bạn đã cảm nhận được tình yêu thương của bố mẹ và biết nói lời xin lỗi và lời yêu thương dành cho bố mẹ.
 Sau khi viết xong kịch bản, tôi chọn những diễn viên phù hợp với vai diễn để vào vai. Các em sẽ tập dựa trên sự hướng dẫn của GV. Cuối cùng các em được hóa trang vào nhân vật thông qua trang phục, đạo cụ trên sân khấu.
 Qua vở tiểu phẩm, tôi cho các em thảo luận để rút ra những biểu hiện của tình yêu thương và ý nghĩa của tình yêu thương trong cuộc sống. Từ vở tiểu phẩm trên, các em sẽ cảm nhận tình yêu thương hiện diện trong cuộc sống hàng ngày thông qua những cử chỉ,những lời nói vô cùng giản dị: như cái bắt tay, ánh mắt, nụ cười, lời cảm ơn, xin lỗi hay những lời yêu thương, quan tâm chân thànhVà tình yêu thương đem lại rất nhiều ý nghĩa trong cuộc sống: khiến cho con người cảm thấy ấm áp, tự tin, hạnh phúc; biết tự hoàn thiện mình để sống tốt đẹp hơn
 Thông qua việc đóng tiểu phẩm cũng rèn cho các em kỹ năng hợp tác, bộc lộ cảm xúc, tự tin trước đám đông
Ảnh minh họa: Học sinh tham gia đóng tiểu phẩm
 Ưu điểm
 Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
 Gây hứng thú và chú ý cho học sinh
 Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh
 Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị – xã hội
 Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
 Hạn chế
 Kịch bản là một vấn đề rất quan trọng đòi hỏi người GV phải dày công tìm tòi, nghiên cứu để viết được một kịch bản hay, giàu ý nghĩa giáo dục.
 Khâu chuẩn bị mất thời gian, HS phải có sự chuẩn bị trước về đạo cụ, trang phục, diễn xuất
 Những điều cần lưu ý khi sử dụng
 Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
 Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép
 Tình huống phải có nhiều cách giải quyết
 Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “ kịch bản”, lời thoại.
 Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai
 Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị đóng vai
 Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm
 Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết
 Các vai diễn nên để HS xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận
 Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.
 Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai.
2.3. Phương pháp trải nghiệm
 Bản chất
 Phương pháp trải nghiệm là phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội.
 Cơ sở của phương pháp trải nghiệm
 Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì con người tiếp thu kiến thức kĩ năng, thái độ 20% những gì chúng ta đọc, 20% những gì chúng ta nghe, 30% những gì chúng ta nhìn, 90% những gì chúng ta làm. “Học đi đôi với hành” thực hành chính là cách học hiệu quả nhất và nhanh nhất, đặc biệt đối với trẻ em. Thực hành chính là trải nghiệm. 
Quy trình của phương pháp trải nghiệm:
 Ưu thế của phương pháp trải nghiệm
 Với phương pháp trải nghiệm học sinh bị lôi cuốn vào nội dung tiết sinh hoạt một cách tự nhiên nhất, từ những tình huống, câu chuyện gắn liền với các em. Các em sẽ tự mình tìm ra những cách giải quyết, các kỹ năng sẽ được trải nghiệm qua việc đóng các tình huống và các em cũng khắc sâu được các kỹ năng:
 Các em được trải nghiệm, được làm, được tư duy suy nghĩ, giúp các em ghi nhớ lâu hơn.
 Trải nghiệm giúp các em vượt qua sợ hãi, để giải quyết các vấn đề, phát huy sự tự tin của bạn thân.
 Phương pháp trải nghiệm giúp phát triển tư duy logic, phân tích tổng hợp vấn đề, khả năng sáng tạo của các em.
 Các em được trải nghiệm những tình huống thực sự, tự tìm ra các giải pháp, khám phá kiến thức từ đó giúp phát triển khả năng vượt khó của các em.
 Các em được làm trung tâm của quá trình học nên các em được tham gia vào quá trình học một cách chủ động, tích cực nhất, từ đó trẻ sẽ chú ý và hứng thú hơn với những điều được học, học kỹ năng sống trở nên thú vị hơn rất nhiều.
 Phương pháp trải nghiệm sẽ giúp các em có khả năng áp dụng các kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề thực tế.
 Yêu cầu đối với phương pháp trải nghiệm
 Kỹ năng sống cho trẻ chủ yếu là các kỹ năng phục vụ cho cuộc sống của các em. Với phương châm không để các em áp lực và chán ghét học kỹ năng sống, phương pháp trải nghiệm thì sẽ lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn nhằm gợi mở phát huy sự sáng tạo của các em, các em được tự mình khám phá vấn đề, kích thích trí tò mò muốn tìm hiểu về điều mới được khơi gợi. Học sinh sẽ đóng vai vào các bài tập tình huống, sau khi trình bày, các em được tự đánh giá về phần thực hiện nhiệm vụ của bản thân, giáo viên sẽ mời các bạn khác cùng đóng góp ý kiến, sau đó gợi ý một số điều chỉnh. Thông qua cách học này, các em sẽ tự rút ra kiến thức cho mình và có thể vận dụng ngay vào thực tế ở môi trường học tập, gia đình và xã hội.
 Trong mỗi bài học, các em được học theo đúng trình độ và sở thích của cá nhân. Mỗi em không bị đồng nhất theo chuẩn chung của cả lớp mà được học tập cá biệt, thể hiện ở được trải nghiệm theo từng đặc điểm tính cách của các em. Các em được tiếp cận với cuộc sống qua nhiều cung bậc khác nhau qua đó đón nhận giá trị cuộc sống một thiết thực nhất. 
 Minh họa cụ thể
 Khi giáo dục kỹ năng “Tìm kiếm sự hỗ trợ”, tôi đã sử dụng phương pháp trải nghiệm thông qua một tình huống. Tình huống tôi đặt ra cho các em: Một bạn nữ là học sinh lớp 8, trên đường đi học về thường xuyên bị hai thanh niên lớn tuổi hơn đi theo trêu trọc, khiến bạn đó rất sợ hãi. Trong tình huống này thì bạn nữ đó phải làm thế nào? Tình huống này cũng rất dễ xảy ra đối với các em đặc biệt là lứa tuổi cấp 2. 
 Tôi yêu cầu mỗi nhóm đưa ra một cách giải quyết và được hiện thực hóa bằng việc sắm vai. Các nhóm khác sẽ đưa ra nhận xét về cách giải quyết của nhóm bạn.
 Thật bất ngờ khi đưa ra tình huống này các em đã rất sôi nổi thảo luận đưa ra phương án giải quyết và vào vai bằng diễn xuất rất tự nhiên. Mỗi nhóm đưa ra một cách giải quyết: có nhóm thì chọn giải pháp về nhà kể cho bố mẹ nghe, có nhóm thì kể cho bạn bè, có nhóm thì kể cho thầy cô giáo hoặc báo cho công annhưng tựu chung lại các em đã biết tìm kiếm sự giúp đỡ cho mình trong tình huống đó chứ không em nào chịu im lặng và cứ để việc đó tái diễn.
 Cách giải quyết bằng tình huống trải nghiệm đóng vai khiến các em vô cùng thích thú, qua đó giáo dục kỹ năng cho các em một cách tự nhiên mà không hề giáo điều khô khan.
2.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống
 Bản chất
 Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống “ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cátset mà không phải trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản.
 Các bước tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có nghĩa là :
Đọc ( hoặc xem hoặc nghe) tình huống thực tế.
Suy nghĩ về nó (có thể viết một vài lĩnh vực đó trước khi thảo luận điều đó với người khác).
Đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống (trong tài liệu viết hay từ giáo viên.
Thảo luận tình huống thực tế.
Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
 Yêu cầu sư phạm
Tình huống có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề.
Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như: bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo ? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật A? Nhân vật B? v.v vấn đề này có thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề?
Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống rộng hơn.
 Minh họa cụ thể
 Khi giáo dục kỹ năng “Kiềm chế cảm xúc”, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống. Lần này tôi không đưa ra tình huống cho các em mà yêu cầu các em hãy thảo luận với nhau để đưa ra các tình huống cụ thể em hoặc bạn em hoặc người thân của em đã trải qua - những tình huống có thật. Sau khi đưa ra các tình huống các nhóm sẽ chọn lọc một số tình huống nghiên cứu để tìm cách giải quyết.
 Các nhóm đã làm việc rất nghiêm túc và đưa ra được các tình huống của nhóm mình. Trong đó tôi ấn tượng nhất với hai tình huống.
Tình huống thứ nhất: Một bạn học sinh lớp 9 thường xuyên bị bố đánh đập mỗi khi say rượu. Không những đánh em mà còn đánh cả mẹ và em của em. Đã nhiều lúc em muốn đánh lại bố mình vì không thể chịu nổi mẹ và em bị đánh.
Tình huống thứ hai: Một bạn học sinh lớp 6 tính tình vốn nhút nhát hiền lành nên thường xuyên bị mấy anh lớp 9 trấn lột. Mỗi lần trấn lột nếu không có tiền sẽ bị dọa đánh. Biết được sự việc đó anh trai của em học sinh đó đã định gọi bạn đến đánh đám học sinh trấn lột kia.
 Sau khi thống nhất đi đến quyết định với cả lớp sẽ chọn hai tình huống trên để giải quyết tại lớp, còn các tình huống còn lại về nhà sẽ nghiên cứu thêm. Tôi đã yêu cầu các em nghiên cứu thảo luận để đưa ra ý kiến của mình và giải pháp giải quyết hai tình huống trên. Quá trình nghiên cứu thảo luận các em sẽ ghi ý kiến ra bảng phụ. Lần lượt đại diện các nhóm sẽ trình bày. Các nhóm khác sẽ nhận xét và GV sẽ chốt kết luận. Các em đã đưa ra các ý kiến khác nhau nhưng chốt lại trong hai tình huống trên các em cũng đi đến thống nhất. Trong tình huống thứ nhất bạn HS đó không nên đánh lại bố mình mà nên chạy đi tìm người lớn giúp đỡ để can ngăn hoặc tách bố em ra. Khi bố tỉnh rượu sẽ nhờ họ hàng, làng xóm, các tổ chức chính quyền đến khuyên nhủ, giảng giải để bố em hiểu ra. Bên cạnh đó gia đình cũng giúp bố cai dần rượu, tạo công ăn việc làm phù hợp để ít có thời gian đi uống rượu.
 Còn trong tình huống hai bạn HS đó nên nhờ đến sự giúp đỡ của gia đình, thầy cô, thậm chí là công an nếu mức độ nghiêm trọng hơn chứ không nên đánh nhau vì như vậy không giải quyết triệt để được vấn đề mà còn để lại hậu quả rất nặng nề.
 Qua hai tình huống trên, tôi muốn hướng các em tới kỹ năng tự kiềm chế cảm xúc để không gây ra những rắc rối cho mình và những người xung quanh đồng thời giải quyết được triệt để vấn đề. Qua đây các em cũng hình thành kỹ năng tìm kiếm sự trợ giúp, kỹ năng ứng biến với những khó khăn, kỹ năng quản lý cảm xúc
 Hoặc khi dạy kỹ năng “Nói lời yêu thương”, tôi đã gửi đến các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các em những mẩu giấy hình trái tim để các thầy cô, các bậc phụ huynh, các em có thể viết lên những suy nghĩ của mình, những lời nói yêu thương từ tận đáy lòng. Tôi có mời một vài thầy cô và phụ huynh đến dự. Nhiều thầy cô và phụ huynh đã rơi nước mắt ghi nghe những lời tâm sự từ chính con mình và chắc hẳn các em cũng cảm nhận sâu sắc từ bố mẹ và thầy cô. Qua đó tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình cũng như giữa thầy cô và học sinh.
2. 5. Phương pháp dự án
 Bản chất
 Phương pháp dự án được hiểu như là một phương pháp trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết với thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh gia quá trình và kết quả thực hiện.
 Phương pháp dự án có 3 đặc điểm cơ bản sau:
 Định hướng học sinh: Trong phương pháp dự án, học sinh tham gia tích cực và tự lực vào quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm và sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Sử dụng phương pháp này cần chú ý đến hứng thú của HS: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Hứng thú của các em cũng cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. Trong khi xây dựng và thực hiện dự án còn cần có sự hợp tác làm việc theo nhóm và sự phân công công việc giũa các thành viên của nhóm. Phương pháp dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng hợp tác của HS.
 Định hướng hoạt động thực tiễn: Phương pháp dự án kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. Chủ đề dự án gắn liền với các vấn đề, tình huống, thực tiễn. Nhiệm vụ dự án cần phù hợp với trình độ và khả năng HS.
 Định hướng sản phẩm: Trong phương pháp dự án, các sản phẩm được tạo ra theo định hướng sản phẩm. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà còn tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn thực hành.
 Phương pháp dự án có ưu điểm:
Gắn lí thuyết với thực hành, tư d

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_ren_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_trung_hoc_co.doc