Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực chủ động, sáng tạo, tích cực cho học sinh trong dạy học Địa lý ở trường THCS
1.Lựa chọn nội dung thích hợp và sử dụng phương pháp dạy học phù hợp để chuyển kiến thức khoa học thành kiến thức học sinh:
Địa lý là một môn khoa học thực nghiệm dựa trên cơ sở của lí thuyết.Lí thuyết có vai trò chủđạo, lí thuyết giúp cho học sinh có một cơ sở lí luận vận dụng vào nghiên cứu thực nghiệm, dùng thực nghiệm kiểm chứng lí thuyết.Việc nghiên cứu các vấnđề lý thuyết cơ bản của chương trình là một khó khăn rất lớn, khi hình thành những khái niệm mới và khó, cần lựa chọn logic nộidung hợp lí, lập luận chặt chẽ, tập trung vào nội dung cốt lõi. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về lớp vỏ khí, thời tiết, khí hậu ở Địa lý lớp 6 để chuyển kiến thức khoa học thành kiến thức của học sinh, giáo viên còn cần phải thiết kế, tổ chức, điều khiển các hoạtđộng của học sinh đểđạtđược mục tiêu cụ thểở mỗi bài, chương, phần học cụ thể.
Hoạtđộngcủa giáo viên là:
- Thiết kế giáoán bao gồm các hoạtđộng của học sinh theo những mục tiêu cụ thể của mỗi bài học mà học sinh cầnđạtđược.
- Tổ chức các hoạtđộng trên lớpđể học sinh hoạtđộngtheo cá nhân hoặc theo nhóm như: nêu vấnđề cần tìm hiểu, tổ chức các họatđộng tìm tòi phát hiện tri thức và hình thành kĩ năng về địa lý.
- Định hướng, điều chỉnh các hoạtđộng của học sinh: chính xác hóa các khái niệm địa lý, các kết luận về các hiện tượng tự nhiên, bản chấtcủa các hiện tượng tự nhiên mà học sinh tự tìm tòiđược.Giáo viên thông báo thêm một số thông tin mà học sinh không thể tự tìm tòiđược thông qua các hoạtđộngở trên lớp.
- Tạo điều kiệnđể cho mọi học sinh ở những trìnhđộ khác nhau đềuđược phát huy tính tích cực sáng tạotheo khả năng của mình. Quan tâm hướng dẫn phương pháp học tập môn, đặc biệt là phương pháp tự học.
- Thiết kế và thực hiện việc sử dụng các phương tiện trực quan, hiện tượng thực tế, mô hình, mẫu vật như là nguồnđể học sinh khai thác tìm kiếm, phát hiện những kiến thức kĩ năng về bộ môn.
- Tạođiều kiện cho học sinh được vận dụng nhiều hơn những tri thức của mìnhđể giải quyết một số vấnđề có liên quan tới địa lý trong đời sống, sản xuất.
- Tạođiều kiệnđể học sinh tham gia tựđánh giá vàđánh giá lẫn nhau trong việcđạt mục tiêu dạy học vàđiều chỉnh hoạtđộng học.
2. Tạo động cơ, hứng thú thông qua các tình huống có vấn đề nhằm phát huy cao độ tính tự lực, sáng tạo của học sinh:
Từ lâu các nhà sư phạmđã quan tâm đến vai tròcủa hứng thú nhận thức trong quá trình học tập. A.Cômenky xem tạo hứng thú là một trong những con đường chủ yếuđể "làm cho học tập trong nhà trường trở thành nguồn vui". Lý luận dạy học hiệnđại xem hứng thú là yếu tố cóý nghĩa to lớn không chỉ trong quá trình dạy học mà cảđối với sự phát triển toàn diện, sự hình thành nhân cách của học sinh.Nếu học sinh đượcđộc lập quan sát, so sánh, phân tích khái quát hóa các hiện tượng dài hơn thì các em sẽ hiểu sâu sắc và hứng thúđược bộc lộ rõ. Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả các nghiên cứu thực nghiệm cho thấyđể hình thành, phát triển hứng thú nhận thức của học sinh cần có các điều kiện sau:
2.1. Phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của học sinh tổ chức những tình huống có vấn đề đòi hỏi dự đoán, nêu giả thuyết tranh luận giữa những ý kiến trái chiều.
Người giáo viên có thể xây dựng tình huống có vấnđề, phát triển thành bài toán nhận thức đểđưa học sinh vào trạng thái hào hứng, sẵn sàng đem hết sức mình giải quyết vấnđề đó. Có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tác giảđề cập về cách xây dựng tình huống có vấnđề.Tình huống có vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách nào, chưa đủ kiến thức để giải quyết. Khi xây dựng tình huống có vấn đề, giáo viên cần lựa chọn:
+ Đặt vấn đề, hướng dẫn học sinh cách giải quyết. Giáo viên đánh giá kết
quả làm việc của học sinh.
+ Nêu vấn đề, gợi ý học sinh cách giải quyết. Giáo viên và học sinh cùng
đánh giá kết quả làm việc.
+ Giáo viên cung cấp thông tin , tạo tình huống. Học sinh phát hiện vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn phương pháp
giải quyết. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
+ Giáo viên đưa tình huống thực để học sinh tự phát hiện vấn đề, lựa chọn
vấn đề cần giải quyết, tự đưa ra phương pháp, lập kế hoạch giải quyết, tự
đánh giá chất lượng và hiệu quả giải quyết vấn đề.
Trong giảng dạy môn địa lý người ta thường xây dựng một số kiểu tình huống sau: tình huống nghịch lí, tình huống bế tắc, tình huống lựa chọn, tình huống nhân quả.
2.1.1. Tình huống nghịch lí:
- Tình huống nghịch lí: Giáo viên đưa ra tình huống như vô lí, trái khoáy ngượcđời không phù hợp với những nguyên lýđãđược công nhậnchung.
Tình huống này thường gặpở các nhà khoa học có những phát minh lớn, khi gặp những sự kiện, hiện tượng khoa học trái với lý thuyếtđương thời.Nhờ những nghịch lýđó mà có những phát minh lớn, lý thuyết mới.
- Tình huống bếtắc: Là một vấn đề mà thoạtđầu tiên ta không thể giải thích nổi bằng lí thuyếtđã biết.
Tình huống nghịch lí và tình huống bế tắc tuy có nét khác nhau, nhưng thường cùng chung một nguồn gốc, một biểu hiện mà ta có thểđồng nhất chúngđược
VD: Khi dạy bài: Thiên Nhiên Châu Phi (Địa lý 7)
- GV tạo ra tình huống có vấn đề khi nghiên cứu về khí hậu của Châu Phi.
+ Vì sao Châu Phi được bao bọc xung quanh bởi các biển và đại dương nhưng lại là khu vực có khí hậu nóng và khô vào bậc nhất thế giới?
- HS sẽ nêu ra các giả thuyết về nguyên nhân làm cho khí hậu Châu Phi khô và nóng vào bậc nhất thế giới: Do vị trí Châu Phi nằm ở các vĩ độ thấp, do Châu Phi có kích thước rộng lớn, lục địa dạng hình khối, do ảnh hưởng của gió mậu dịch và khối khí lục địa khô nóng HS thảo luận, trao đổi, quan sát, phân
tích bản đồ Tự nhiên Châu Phi để trả lời. HS rút ra kết luận.
- GV chốt lại toàn bộ phần trả lời của HS: Sự phối hợp , tác động của các
nhân tố trên là nguyên nhân làm cho khí hậu Châu Phi nóng vào bậc nhất thế giới
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực chủ động, sáng tạo, tích cực cho học sinh trong dạy học Địa lý ở trường THCS
tđịnh hiệu quả học là những gì học sinh làm chứ không phải những gì giáo viên làm. + Hoạtđộng phải nhằm vào kĩ năng, năng lực bộ phận của mục tiêu hơn là chỉ nhằm vào nội dung kiến thức. + Hoạtđộng trên lớp phải chuẩn bị cho hoạtđộng tự học sau bài học trên lớp. 5. Học cách thu thập thông tin: Giáo viên cần phải dạy cho học sinh cách thu thập thông tin và coi đây như là một hình thức dạy phương pháp tựhọc cho học sinh. Muốnthu thập tốt các thông tin, mỗi học sinh cần: *Học cách nghe giảng, ghi bài trên lớp: + Tận dụng sách giáo khoa, sách bài tập, đồng thời phải có vở ghi và vở làm bài. Kết hợp cao nhấtđồng thời thính giác, thị giác.Cố gắngđể hiểu rõ vấnđề mấu chốt, trọng tâm chi phối các vấnđề khác. + Nhanh chóng xác địnhđược thủ thuật nghe và ghi bài, phù hợp với mỗi môn học, thậm chíđối với mỗi thầy cô giáo. *Học cách học bài: + Học cách tự họcchúý cách học theo hướng thao tác tư duy từ thấp lên cao theo sáu nấc thang nhậnthức : nhận biết, thông hiểu, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Chúý họcứng dụng, học phân tích, học bình luậnđánh giá từngkiến thức, học tư duy trừu tượng, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo trong quan hệ hệ thống của các kiến thức. + Học cách trình bày diễn giải bằng lờinhữngđiều họcđược trước nhóm nhỏ học tập hoặc trước tập thể lớp. + Học cách tham khảo trí tuệ của bạn học và đồng nghiệp hoặc cách thuyết phục các bạn học. *Học cách đọc sách: +Trước hết phải rèn luyện lòng ham thíchđọc sách. + Cần học cách chọn sách đọc: phù hợp với mục tiêu môn học, phù hợp với trìnhđộ ngườiđọc, biết chọn sách đểđào sâu và mở rộng một vấnđề. + Học cách đọc sách và ghi chépđể lưu giữ thông tin, để bổsung bài giảng vàđể tự học nâng cao tri thức và năng lực. *Học cách làm thực hành, thực nghiệm: Học cách quan sát và làm thực hành, quan sát các phương tiện trực quan và hiện tượng trong cuộc sống thực tiễn. 6. Học cách xử lí thông tin: Để có thể tự rút ra kết luận cần thiết hoặc nhận xét, trả lời câu hỏi hay hệ thống câu hỏi hướng dẫn, cần: - Hỏiđể hiểu rõ và hiểu sâu. - Cần rèn luyện thường xuyên thói quen nêu thắc mắc, nêu vấnđề thảo luận. - Cần học cách tóm tắt tài liệuđọcđược, làm tổng kết hệ thống hóa kiến thức của một chương, một số chương hoặc cả học kì, cả năm học. Chúý so sánh, khái quát hóa, tập phân tích, tổng hợp, bình luận, nêu chính kiến của bản thân. 7. Học cách lập kế hoạch cá nhân: Muốnđạtđược những kết quả ngắn hạn, dài hạn.Muốn cóđược mục tiêu phấn đấu thì mỗi học sinh ngay từ khi trong ghế nhà trường cũng cần giúpđỡđể các em có thể tự hoạch định kế hoạch riêng của mình và cố gắng thực hiện tốt các kế hoạchđó. Ví dụ như: Lập kế hoạch phấnđấu cho mỗi học kì, mỗi môn học, năm học...Lập kế hoạch sử dụng quĩ thời gian. Quan trọng hơn là các em phải cóđược kế hoạch học tập cảđời, đó cũng chính là mục tiêu của cuộc sống. Với các biện pháp áp dụng nêu trên, qua kiểm tra khảo sát trong giờ học Địa lý, các em học sinh đã tích cực tiếp thu kiến thức hơn trong việc học tập. Tuy nhiên, tính chủ động, sáng tạo, tích cực của học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi đã có một số biện pháp giảng dạy nhằm nâng cao năng lực chủ động, sang tạo, tích cực cho học sinh trong dạy học Địa lý ở trường THCS được trình bày tại chương III của sáng kiến kinh nghiệm. CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC, SÁNG TẠO THÔNG QUA DẠY VÀ HỌC ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNGTRUNG HỌC CƠ SỞ Theo quan điểm của giáo dục hiệnđại, một trong nhữngđiểm mới của mục tiêu giáo dục của các cấp bậc học là tập trung hơn nữa vào việc hình thành các năng lực: năng lực nhận thức, năng lực hànhđộng (năng lực giải quyết vấnđề), năng lực thíchứng cho học sinh. Giống như nhiều môn khoa học tự nhiên khác, mục tiêu của việc dạy học Địa lý tập trung nhiều hơn tới việc hình thành những năng lực hànhđộng cho học sinh. Mục tiêu của việc học Địa lý, ngoài những kiến thức, kĩ năng cơ bản mà học sinh cầnđạtđược, cần chúý nhiều tới việc hình thành các kĩ năng vận dụng kiến thức, tiến hành nghiên cứu trong học tập như: quan sát, phân loại, ghi chép thông tin, đề ra giả thuyết khoa học, giải quyết vấn đề, tiến hành thực hành từđơn giảnđến phức tạp... để học sinh tự phát hiện và giải quyết một cách chủđộng sáng tạo các vấnđề có liên quan tới bài học. Quá trình dạy học không chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là giúp học sinh nhận thức được một số kiến thức kĩ năng cụ thể mà bằng cách dạy nàođể các em phát huy tích cực chủđộng, phát triển năng lực sáng tạo và nhân cách của người lao động mớiđáp ứngđược yêu cầu của xã hội. Như vậy, nhiệm vụ của người giáo viên không chỉ dừng lạiở việc truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn phải bồi dưỡng, rèn luyện năng lực chủđộng sáng tạo ngay từ khi còn họcở phổ thông đểđào tạo ra một thế hệ tương lai cóđầyđủ phẩm chất, trí tuệ sáng tạo, có khả năng thíchứng cao trong mọi hoàn cảnh. 1.Lựa chọn nội dung thích hợp và sử dụng phương pháp dạy học phù hợp để chuyển kiến thức khoa học thành kiến thức học sinh: Địa lý là một môn khoa học thực nghiệm dựa trên cơ sở của lí thuyết.Lí thuyết có vai trò chủđạo, lí thuyết giúp cho học sinh có một cơ sở lí luận vận dụng vào nghiên cứu thực nghiệm, dùng thực nghiệm kiểm chứng lí thuyết.Việc nghiên cứu các vấnđề lý thuyết cơ bản của chương trình là một khó khăn rất lớn, khi hình thành những khái niệm mới và khó, cần lựa chọn logic nộidung hợp lí, lập luận chặt chẽ, tập trung vào nội dung cốt lõi. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về lớp vỏ khí, thời tiết, khí hậu ở Địa lý lớp 6 để chuyển kiến thức khoa học thành kiến thức của học sinh, giáo viên còn cần phải thiết kế, tổ chức, điều khiển các hoạtđộng của học sinh đểđạtđược mục tiêu cụ thểở mỗi bài, chương, phần học cụ thể. Hoạtđộngcủa giáo viên là: - Thiết kế giáoán bao gồm các hoạtđộng của học sinh theo những mục tiêu cụ thể của mỗi bài học mà học sinh cầnđạtđược. - Tổ chức các hoạtđộng trên lớpđể học sinh hoạtđộngtheo cá nhân hoặc theo nhóm như: nêu vấnđề cần tìm hiểu, tổ chức các họatđộng tìm tòi phát hiện tri thức và hình thành kĩ năng về địa lý... - Định hướng, điều chỉnh các hoạtđộng của học sinh: chính xác hóa các khái niệm địa lý, các kết luận về các hiện tượng tự nhiên, bản chấtcủa các hiện tượng tự nhiên mà học sinh tự tìm tòiđược.Giáo viên thông báo thêm một số thông tin mà học sinh không thể tự tìm tòiđược thông qua các hoạtđộngở trên lớp. - Tạo điều kiệnđể cho mọi học sinh ở những trìnhđộ khác nhau đềuđược phát huy tính tích cực sáng tạotheo khả năng của mình. Quan tâm hướng dẫn phương pháp học tập môn, đặc biệt là phương pháp tự học. - Thiết kế và thực hiện việc sử dụng các phương tiện trực quan, hiện tượng thực tế, mô hình, mẫu vật như là nguồnđể học sinh khai thác tìm kiếm, phát hiện những kiến thức kĩ năng về bộ môn. - Tạođiều kiện cho học sinh được vận dụng nhiều hơn những tri thức của mìnhđể giải quyết một số vấnđề có liên quan tới địa lý trong đời sống, sản xuất. - Tạođiều kiệnđể học sinh tham gia tựđánh giá vàđánh giá lẫn nhau trong việcđạt mục tiêu dạy học vàđiều chỉnh hoạtđộng học. 2. Tạo động cơ, hứng thú thông qua các tình huống có vấn đề nhằm phát huy cao độ tính tự lực, sáng tạo của học sinh: Từ lâu các nhà sư phạmđã quan tâm đến vai tròcủa hứng thú nhận thức trong quá trình học tập. A.Cômenky xem tạo hứng thú là một trong những con đường chủ yếuđể "làm cho học tập trong nhà trường trở thành nguồn vui". Lý luận dạy học hiệnđại xem hứng thú là yếu tố cóý nghĩa to lớn không chỉ trong quá trình dạy học mà cảđối với sự phát triển toàn diện, sự hình thành nhân cách của học sinh.Nếu học sinh đượcđộc lập quan sát, so sánh, phân tích khái quát hóa các hiện tượng dài hơn thì các em sẽ hiểu sâu sắc và hứng thúđược bộc lộ rõ. Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả các nghiên cứu thực nghiệm cho thấyđể hình thành, phát triển hứng thú nhận thức của học sinh cần có các điều kiện sau: 2.1. Phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của học sinh tổ chức những tình huống có vấn đề đòi hỏi dự đoán, nêu giả thuyết tranh luận giữa những ý kiến trái chiều. Người giáo viên có thể xây dựng tình huống có vấnđề, phát triển thành bài toán nhận thức đểđưa học sinh vào trạng thái hào hứng, sẵn sàng đem hết sức mình giải quyết vấnđề đó. Có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tác giảđề cập về cách xây dựng tình huống có vấnđề.Tình huống có vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách nào, chưa đủ kiến thức để giải quyết. Khi xây dựng tình huống có vấn đề, giáo viên cần lựa chọn: + Đặt vấn đề, hướng dẫn học sinh cách giải quyết. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh. + Nêu vấn đề, gợi ý học sinh cách giải quyết. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá kết quả làm việc. + Giáo viên cung cấp thông tin , tạo tình huống. Học sinh phát hiện vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn phương pháp giải quyết. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. + Giáo viên đưa tình huống thực để học sinh tự phát hiện vấn đề, lựa chọn vấn đề cần giải quyết, tự đưa ra phương pháp, lập kế hoạch giải quyết, tự đánh giá chất lượng và hiệu quả giải quyết vấn đề. Trong giảng dạy môn địa lý người ta thường xây dựng một số kiểu tình huống sau: tình huống nghịch lí, tình huống bế tắc, tình huống lựa chọn, tình huống nhân quả. 2.1.1. Tình huống nghịch lí: - Tình huống nghịch lí: Giáo viên đưa ra tình huống như vô lí, trái khoáy ngượcđời không phù hợp với những nguyên lýđãđược công nhậnchung. Tình huống này thường gặpở các nhà khoa học có những phát minh lớn, khi gặp những sự kiện, hiện tượng khoa học trái với lý thuyếtđương thời.Nhờ những nghịch lýđó mà có những phát minh lớn, lý thuyết mới. - Tình huống bếtắc: Là một vấn đề mà thoạtđầu tiên ta không thể giải thích nổi bằng lí thuyếtđã biết. Tình huống nghịch lí và tình huống bế tắc tuy có nét khác nhau, nhưng thường cùng chung một nguồn gốc, một biểu hiện mà ta có thểđồng nhất chúngđược VD: Khi dạy bài: Thiên Nhiên Châu Phi (Địa lý 7) - GV tạo ra tình huống có vấn đề khi nghiên cứu về khí hậu của Châu Phi. + Vì sao Châu Phi được bao bọc xung quanh bởi các biển và đại dương nhưng lại là khu vực có khí hậu nóng và khô vào bậc nhất thế giới? - HS sẽ nêu ra các giả thuyết về nguyên nhân làm cho khí hậu Châu Phi khô và nóng vào bậc nhất thế giới: Do vị trí Châu Phi nằm ở các vĩ độ thấp, do Châu Phi có kích thước rộng lớn, lục địa dạng hình khối, do ảnh hưởng của gió mậu dịch và khối khí lục địa khô nóng HS thảo luận, trao đổi, quan sát, phân tích bản đồ Tự nhiên Châu Phi để trả lời. HS rút ra kết luận. - GV chốt lại toàn bộ phần trả lời của HS: Sự phối hợp , tác động của các nhân tố trên là nguyên nhân làm cho khí hậu Châu Phi nóng vào bậc nhất thế giới 2.1.2. Tình huống lựa chọn: Giáo viên đưa ra tình huống có vấnđềđể học sinh lựa chọn trong những con đường có thể có một con đường duy nhất bảođảm việc giải quyếtđược nhiệm vụđặt ra. Ví dụ: Khi dạybài:Thiên nhiên Trung và Nam Mỹ. GV cho HS làm bài tập trắc nghiệmđể củng cố đặc điểm tự nhiên của Trung và Nam Mỹ như sau: Thiên nhiên Trung và Nam Mỹ phân hóa: a. Theo chiều từ bắc xuống nam. b. Theo chiều từ bắc xuống nam, từ đông sang tây c. Theo chiều từ thấp lên cao. d. Theo chiều từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, từ thấp lên cao. HS tập hợp những kiến thức vừa học được, suy luận ra được một phương án đúng. Sự phân chia đó phải có sự kết hợp của các yếu tố về địa hình, tự nhiên, khí hậu... Vậy câu d đúng. 2.1.3. Tình huống nhân quả: Giáo viên có thể tạo ra, đưa ra các tình huống có vấn đề để học sinh buộc phải tìm đường áp dụng các kiến thức đã có trong học tập, trong thực tiễn hoặc tìm lời giải đáp cho câu hỏi " tại sao?". Ví dụ: Khi học bài: Ô nhiễm môi trường ở đới Ôn hòa (lớp 7) GV: Tạo tình huống nhân quả bằng cách đưa ra câu hỏi: giải thích vì sao có thể nói khí thải của các nhà máy và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy...) là nguyên nhân của mưa axit? HS: vận dụng kiến thức đã học để giải thích hiện tượng tự nhiên như sau: Các nhà máy, động cơ máy, phương tiện giao thông dùng nhiên liệu là than, xăng ,dầu thì khí thải có khí CO2và các khí hóa học độc hại khác. Các khí này tác dụng với nước mưa tạo ra axit làm cho nước mưa có chứa axit. Đó là nguyên nhân của mưa axit. Giáo viên có thể mở rộng và giải thích rõ hơn cho học sinh thông qua công thức hóa học sau: CO2 + H2O H2CO3 SO2 + H2O H2SO3 2.2. Thực hiện hoạt động dạy học ở mức độ phù hợp nhất đối với trình độ phát triển củađối tượng học sinh: Hoạt độngsẽ làm phát triển năng lực của con người. Học sinh nếu tích cực, tự lực hoạt động nhận thức trong học tập thì học sinh sẽ chiếm lĩnh kiến thức được một cách chắc chắn, tư duy sẽ được phát triển. Để tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh hoạt động có kết quả trong học tập, thì vai trò của người giáo viên trở nên vô cùng quan trọng và nhiệm vụ cũng nặng nề, phức tạp hơn. Trước đây người giáo viên chỉ cần nắm vững nội dung môn học để có thể giảng giải, minh hoạ là có thể dạy học được. Còn trong thực tế hiện nay người giáo viên không những phải nắm vững nội dung môn học mà còn phải rất hiểu đối tượng học sinh mà mình trực tiếp giảng dạy, cùng một bài giảng áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh trong lớp: Học sinh yếu, trung bình và học sinh khá, giỏi. Tùy theo từng đối tượng cụ thể mà giáo viên áp dụng từng cách dạy sao cho vừa sức học sinh và có tác dụng kích thích hoạt động học của học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài Thiên nhiên Trung và Nam Mỹ ở lớp 7, giáo viên có thể yêu cầu : Đối với, học sinh yếu yêu cầu đơn giản như: - Dựa vào SGK, cho biết các dạng địa hình của Trung và Nam Mỹ? Đối với, học sinh trung bình yêu cầu đọc kênh hình khai thác kiến thức đơn giản như: - Hãy xác định các dạng địa hình của Trung và Nam Mỹ ? Đối với học sinh khá, giỏi có thể yêu cầu cao hơn: - So sánh điểm giống và khác nhau về địa hình của Trung và Nam Mỹ với địa hình Bắc Mỹ? 2.3. Cần tạo ra không khí có lợi cho lớp học, làm cho học sinh thích thú được đến lớp, mong đến giờ học: Muốn làm được như vậy phải tạo ra sự giao tiếp thuận lợi giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh. Bằng trình độ, kiến thức khoa học và nghiệp vụ sư phạm của mình, giáo viên tạo được uy tín cao đối với học sinh. Bằng tác phong gần gũi, thân thiện, giáo viên chiếm được sự tin cậy của học sinh. Bằng cách tổ chức và điều khiển hợp lý các hành động của từng cá nhân với tập thể học sinh, giáo viên sẽ tạo ra được hứng thú cho cả lớp và niềm vui học tập của từng cá nhân học sinh. 3. Rèn luyện cho học sinh có được một phương pháp tư duy hiệu quả: Địa lý là bộ môn khoa học có rất nhiều khả năng trong việc hình thành và phát triển tư duy cho học sinh nếu việc dạy và học Địa lý trên lớp trong các giờ học được tổ chức đúng đắn, hợp lý. Suy nghĩ, lập luận một cách hệ thống, logic và có chứng cứ là một đặc tính quan trọng của trí tuệ con người đó chính là tư duy. Mỗi cá nhân con người đều có thể học được các kỹ năng tư duy và chính điều đó giúp cho con người trở nên độc đáo, sáng tạo và đổi mới trong giải quyết các vấn đề. Vì vậy , nhiệm vụ của người giáo viên là phải rèn luyện cho học sinh có một phương pháp tư duy có hiệu quả, trong đó cần đặc biệt chú ý rèn luyện cho học sinh một số thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa ... 3.1. Phân tích và tổng hợp kiến thức: *Phân tích : Là hoạt động tư duy phân chia một vật, một hiện tượng ra các yếu tố, các bộ phận nhằm mục đích nghiên cứu chúng đầy đủ, sâu sắc trọn vẹn hơn theo một hướng nhất định. *Tổng hợp: Là hoạt động tư duy kết hợp các bộ phận, các yếu tố đã dược nhận thức để nhận thức cái toàn bộ. Phân tích và tổng hợp là những yếu tố cơ bản của hoạt động tư duy, thường được dùng trong khi hình thành những phán đoán mới (quy nạp, suy diễn, suy lí tương tự) và ngay cả trong các thao tác tư duy khác như so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa. 3.2. So sánh kiến thức: Là sự xác định những điểm giống nhau và khác nhau của sự vật, hiện tượng và của những khái niệm phản ánh chúng. Thao tác so sánh phải kèm theo sự phân tích và tổng hợp. Ví dụ bài:Thiên nhiên Trung và Nam Mỹ (lớp 7) GV: Khi dạy đến phần địa hình của Trung và Nam Mỹ, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi như sau: - Ở bài trước, ta đã tìm hiểu về đặc điểm địa hình của Bắc Mỹ. Vậy em hãy cho biết đặc điểm địa hình của Bắc Mỹ và Nam Mỹ có điểm gì giống và khác nhau? HS: So sánh những đặc điểm địa hình của hai khu vực vừa học, phân tích, tổng hợp xem đặc điểm địa hình nào là đặc điểm giống nhau, đặc điểm nào là đặc điểm khác nhau và đi đến kết luận về sự so sánh như sau: - Giống nhau: Cấu trúc địa hình đều chia làm 3 khu vực. - Khác nhau: + Bắc Mỹ: Hệ thống Coocdie mở rộng chiếm gần ½ Bắc Mỹ ở phía tây. Chỉ có 1 đồng bằng Trung Tâm ở giữa. Núi già ở phía đông. + Nam Mỹ: Hệ thống AnĐet cao, đồ sộ, chạy dài hơn nhưng hẹp hơn Coocđie. Có 4 đồng bằng ở giữa. Phía đông là 2 sơn nguyên. 3.3. Khái quát hóa kiến thức: Khái quát hóa kiến thức là tìm ra những cái chung và bản chất trong số những dấu hiệu, tính chất và những mối liên hệ giữa chúng thuộc về một loại vật thể hoặc hiện tượng. Ví dụ: Khí áp và gió trên trái đất (lớp 6) Khi học phần về các loại gió trên trái đất, các loại gió đều có điểm giống nhau: - Là sự chuyển động của không khí từ nơi có khí áp cao về nơi có khí áp thấp. - Là các loại gió thổi thường xuyên trên trái đất. Các dấu hiệu trên đều là các dấu hiệu chung và bản chất, các dấu hiệu khác cũng là chung nhưng không phải là bản chất. Để học sinh có được khả năng tư duy khái quát hóa thì trước hết phải hình thành cho học sinh những cách khái quát hóa kiến thức một cách đúng đắn. Đề đạt được điều đó, cần đảm bảo các điều kiện sau : - Làm biến đổi những dấu hiệu không bản chất của vật hay hiện tượng khảo sát, đồng thời giữ không đổi dấu hiệu bản chất. Ví dụ: Ở lớp 6, khi cho học sinh học về cách xác định phương hướng trên bản đồ thì học sinh sẽ tự rút ra một khái quát hóa sai lầm, chưa chính xác khi cho rằng khi xác định phương hướng trên bản đồ( lược đồ) bao giờ phía trên của bản đồ (lược đồ) cũng chỉ hướng bắc, phía dưới sẽ chỉ hướng nam. Phía bên phải của bản đồ( lược đồ) sẽ chỉ hướng đông và phía bên trái sẽ chỉ hướng tây (dựa vào hệ thống kinh vĩ tuyến). Rõ ràng quy tắc này không thể áp dụng cho tất cả các trường hợp nếu như trên bản đồ (lược đồ) có áp dụng mũi tên chỉ hướng bắc. - Chọn sự biến đổi hợp lí nhất nhằm nêu bật được dấu hiệu bản chất (luôn luôn tồn tại) và trừu tượng hóa dấu hiệu thứ yếu (biến đổi). Ví dụ:Bài Thời tiết và khí hậu (lớp 6)khi dạy về phần khí hậu liên hệ với khí hậu Việt Nam giáo viên cho học sinh nhận ra tính bản chất lặp đi lặp lại của tính chất mùa khí hậu ở nước ta trong khoảng thời gian nhất định mặc dù có sự xê dịch giữa năm này và năm khác( có thể các mùa có thể đến sớm hơn hoặc muộn hơn). Trong tư duy của học sinh có một "con đường định sẵn, một đương mòn" do cách dạy của giáo viên (chỉ sử dụng một mẫu, một cách không thay đổi). Muốn phá bỏ thói quen, quán tính đó của tư duy, giúp học sinh nhận ra được điều bản chất và đi tới những khái quát hóa đúng đắn, ta cần sử dụng nhiều kiểu biến đổi khác nhau. Như vậy, đồng thời còn rèn luyện cho học sinh được một sự tư duy mềm dẻo. - Phải giúp cho học sinh biết cách tự mình phát biểu được thành lời nguyên tắc biến đổi, biến hóa và nêu lên được đặc tính của những dấu hiệu không bản chất của sự vật, hiện tượng. Khi học sinh đã hiểu được những dấu hiệu không bản chất và phát biểu được nguyên tắc biến đổi, biến hóa của sự vật, hiện tượng thì cũng chứng tỏ rằng học sinh đã nhận thức được dấu hiệu bản chất. Ngoài việc bảo đảm những điều kiện nêu trên, giáo viên cần tập luyện cho học sinh phát triển tư duy khái quát hóa bằng những hình thức quen thuộc như lập dàn ý, xây dựng kết luận và viết tóm tắt nội dung các bài học, các chương của tài liệu sách giáo khoa. Ngoài những phương pháp đã nêu trên trong giảng dạy Địa lý cũng còn có thể áp dụngphương pháp hình thành những phán đoán mới: suy lí quy nạp, suy lí diễn dịch và suy lí tương tự. Quy nạp là cách phán đoán dựa trên sự nghiên cứu nhiều hiện tượng, trư
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_nang_luc_ch.doc