Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9 thông qua công tác chủ nhiệm
Ở bất cứ thời đại nào, đạo đức của con người cũng luôn được coi trọng. Mặc dù, trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên những chuẩn mực về đạo đức cũng khác nhau.
Trong những năm qua, đất nước ta đang chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Với công cuộc đổi mới chúng ta đã có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào về phát triển xã hội.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế mới cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn tác động đến đại đa số thanh niên và học sinh như có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ hoài bão, lập thân, lập nghiệp, những tiêu cực trong thi cử thêm vào đó là sự du nhập văn hóa đồi trụy thông qua các phương tiện đại chúng như: phim ảnh, game, mạng internet. làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên và học sinh, nhất lạ các em chưa được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này làm ảnh hưởng đến sự tu dưỡng học tập và rèn luyện đạo đức.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9 thông qua công tác chủ nhiệm
phúc của mỗi thành viên, tới tình cảm, niềm tin, đạo đức của con người. Giáo dục và tự giáo dục đạo đức đối với cán bộ đảng viên bị xem nhẹ, việc rèn luyện và đánh giá đạo đức bị buông lỏng. Giáo dục và y tế là những lĩnh vực mà tình cảm đạo đức luôn được đặt lên hàng đầu, là những hoạt động luôn chứa đựng lòng vị tha, nhân ái, nhân đạo, thì giờ đây, những giá trị tốt đẹp đó phần nào đang bị giá trị vật chất làm vẩn đục. Do vậy, giáo dục tình cảm đạo đức sẽ góp phần tích cực vào việc khắc phục tình trạng đó, bồi đắp lại những tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người trong điều kiện hiện nay. * Giáo dục lí tưởng đạo đức: Cùng với tình cảm và tri thức đạo đức, lí tưởng đạo đức là một yếu tố quan trọng cấu thành ý thức đạo đức cá nhân. Chức năng của lí tưởng đạo đức được thể hiện ở chỗ nó là cơ sở lựa chọn giá trị, là mục tiêu cao nhất của hành vi đạo đức và đánh giá đạo đức. Lí tưởng đạo đức chính là định hướng giá trị, là mục đích của hành vi đạo đức; nó tạo ta hứng thú, khát vọng và động cơ thúc đẩy con người trong hoạt động thực hiện đạo đức. Lí tưởng đạo đức là quan niệm về cái cần vươn tới và cũng như mọi lí tưởng xã hội khác, lí tưởng đạo đức bao hàm yếu tố lựa chọn, mong muốn, khao khát vì vậy nó chứa đựng yếu tố tình cảm đạo đức. Nó là sự thống nhất giữa tình cảm và lí trí. Việc cá nhân lĩnh hội được lí tưởng đạo đức tiên tiến của thời đại vừa khẳng định sự phát triển đạo đức của anh ta vừa là điều kiện bảo đảm chắc chắn nhất cho anh ta trong mọi hoạt động mang ý nghĩa xã hội. Sự phát triển đồng bộ và phong phú của tình cảm, tri thức và lí tưởng đạo đức là cơ sở để con người nhận thức, đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức. Vì vậy, giáo dục đạo đức với tư cách là quá trình làm hình thành và phát triển ý thức đạo đức con người, cũng đồng thời là quá trình làm phát triển năng lực hoạt động đạo đức tức là các năng lực nhận thức đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức của con người. * Giáo dục giá trị đạo đức: Giá trị đạo đức bao gồm: Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, giá trị đạo đức cách mạng và tinh hoa đạo đức nhân loại. + Về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc: Truyền thống đạo đức dân tộc là mạch chủ đạo, chi phối suy nghĩ, hành vi ứng xử, đạo lí làm người của người Việt Nam. Nó trở thành chuẩn mực để xác định thiện- ác, phải - trái, tốt - xấu; chi phối lương tâm, hạnh phúc, nghĩa vụ của người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hoá riêng, phong phú, bền vững với những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, cao quý. Thứ nhất, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất trong đấu tranh dựng nước, giữ nước. Thứ hai, truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, tương thân tương ái “lá lành đùm lá rách”. Thứ ba, dân tộc Việt Nam có truyền thống lạc quan, yêu đời, tin tưởng ở tương lai. Trong muôn vàn khó khăn, nguy hiểm vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần lạc quan của dân tộc ta có cơ sở xuất phát từ niềm tin vào sức mạnh bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lí, của chính nghĩa. Thứ tư, Việt Nam là một dân tộc có truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu; là một dân tộc ham học hỏi, không ngừng mở rộng đón nhận tinh hoa văn hoá, đạo đức nhân loại. + Về giá trị đạo đức cách mạng: Quan niệm chung về đạo đức nói đến nội dung của đạo đức làm cơ sở để con người tuân theo. Còn đạo đức cách mạng chính là đạo đức hành động. Đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Ra sức làm việc cho Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh THCS tập trung vào: Giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu hoà bình, có tinh thần cộng đồng và quốc tế, có tinh thần lao động sáng tạo, có thái độ xây dựng và bảo vệ môi trường, bảo vệ lẽ phải, biết yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ... + Về tinh hoa đạo đức nhân loại: Giá trị đạo đức phương Đông được thể hiện rõ nét trong Nho giáo, Phật giáo... Trong đạo Nho, mặc dù có những yếu tố hạn chế nhưng lại chứa đựng nhiều giá trị đạo đức tiến bộ, những hạt nhân hợp lí tạo nên sức sống mãnh liệt của nó trong mấy ngàn năm qua. Mặt tích tực của đạo đức Nho giáo đó là triết lí hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; là lí tưởng về một xã hội bình trị; là triết lí nhân sinh, tu thân dưỡng tính... Bên cạnh đó những giá trị đạo đức trong Phật giáo lại thể hiện dưới góc độ: Thứ nhất là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, một tình yêu bao la dành cho cả chim muông, cây cỏ. Thứ hai là nếp sống có đạo đức, giản dị, chăm lo làm điều thiện. Thứ ba là tinh thần bình đẳng, dân chủ, chất phác chống lại sự phân biệt đẳng cấp. Thứ tư là tinh thần đề cao lao động, chống lười biếng. Giá trị đạo đức phương Tây thể hiện: Thứ nhất ở tư tưởng đạo đức truyền thống Cơ Đốc giáo, trong Tân ước, Cựu ước; qua lời nói, việc làm của Chúa Giêsu với lòng nhân ái, thương người. Thứ hai là chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo tư sản thời kì khai sáng thông qua các khẩu hiệu: tự do, bình đẳng, bác ái. Thứ ba là tư tưởng dân chủ, nhân quyền, dân quyền Pháp (1789); quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776... 3. Đặc điểm học sinh lớp 9 Học sinh lớp 9 là những học sinh có độ tuổi 14, 15. Đây là độ tuổi có vị trí đặc biệt trong sự phát triển của mỗi con người, đòi hỏi phải có sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục đặc biệt. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm gọi lứa tuổi này với nhiều tên gọi như: “thời kỳ quá độ”, “già trẻ con, non người lớn”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bạo động”, “tuổi bất trị”, Những tên gọi này đã nói lên tính phức tạp cũng như tầm quan trọng của việc dạy dỗ, giáo dục trong quá trình phát triển của các em. Đây là thời kỳ chuyển từ thơ ấu sang trưởng thành, các em có sự phát triển mạnh mẽ và thay đổi đột ngột, rõ rệt về cấu tạo cơ thể và những chức năng sinh lý cũng như tâm lý nhân cách. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, các em trưởng thành sớm hơn cha ông ta. Lứa tuổi học sinh lớp 9 có những đặc trưng tâm lý chủ yếu: - Là lứa tuổi dậy thì - Thích chia sẻ, tâm tình với bạn bè - “ Cải tổ” nhân cách và định hình bản ngã - Muốn được đối xử như người lớn. Lứa tuổi này có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao, có nhiều dự định và hoài bão lớn lao. Nếu chúng ta hướng các em vào những hoạt động bổ ích, phù hợp với năng lực, sở trường, nguyện vọng của các em thì kích thích được tính tích cực hoàn thành nhiệm vụ, phát triển và hoàn thiện nhân cách. Như vậy, chúng ta thấy rằng tình cảm của học sinh lớp 9 đã hình thành, phát triển phong phú và sâu săc hơn lứa tuổi học sinh tiểu học và học sinh các lớp đầu THCS. Tình cảm bồng bột, sôi nổi đã dần giảm đi, nhường chỗ cho tình cảm có ý thức. Đây là lứa tuổi đang phát triển mạnh mẽ tình cảm đạo đức, tình cảm bạn bè, tập thể, đồng đội. Trong công tác giáo dục, những nhà sư phạm cần phải nắm được những đặc điểm này để có những tác động giáo dục phù hợp nhằm hình thành và phát triển tình cảm trong sáng và lành mạnh cho các em. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 9 là thích được khen, thích được thầy, bạn bè, cha mẹ biết đến những mặt tốt, những ưu điểm, những thành tích của mình. Nếu quá nhấn mạnh về khuyết điểm của học sinh, luôn nêu cái xấu, những cái chưa tốt thì sẽ đễ đẩy các em vào tình trạng tiêu cực, chán nản, thiếu tự tin, thiếu sức vươn lên. Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng những mặt tốt, những thành tích của học sinh dù nhỏ; biết dùng những gương tốt của học sinh trong trường và những tấm gương người tốt việc tốt khác để giáo dục các em. Cần phải chú ý đến cá tính, giới tính học sinh. Đối với từng em, học sinh gái, học sinh trai cần có những phương pháp giáo dục thích hợp, không nên đối xử sư phạm đồng loạt với mọi học sinh. Muốn vậy người thầy phải sâu sát học sinh, nắm chắc từng em, hiểu rõ cá tính để có những biện pháp giáo dục phù hợp. II. THỰC TRẠNG VÂN ĐỀ 1. Thực trạng về đạo đức của học sinh lớp 9 hiện nay Quan quan sát, tìm hiểu, thực tế của công tác chủ nhiệm lớp 9, tôi nhận thấy hiện nay, ở một số học sinh xuất hiện hiện tượng vi phạm đạo đức như la cà ở hàng quán, đặc biệt là các quán internet, tiếp xúc nhiều với các tệ nạn trong xã hội, các em rất dễ học đòi các thói hư, tật xấu. Những em này thường lập thành hội, nhóm, hay có biểu hiện nói tục, ăn mặc nhố nhăng, nhuộm tóc, hút thuốc, la cà hàng quán... kết quả học tập giảm sút. Rất nhiều thông tin trên mạng, báo chí, dư luận của giáo viên, nhân dân và toàn xã hội... đã rất băn khoăn, lo ngại về sự xuống cấp của đạo đức học sinh. Một số hành vi vi phạm đạo đức của học sinh THCS như sau: - Ý thức thực hiện nội quy học tập của một số học sinh còn chưa tốt: nghỉ học, trốn tiết, lười học bài cũ, gian lận trong kiểm tra thi cử, gây rối trong các giờ học với mục đích không cho bạn học bài, gây ức chế thách thức giáo viên. - Vi phạm các điều cấm như: hút thuốc, uống rượu, bia, trộm cắp, đánh bạc, đánh nhau, vi phạm luật giao thông. - Vô lễ với người lớn, xúc phạm nhân cách nhà giáo, nói tục, vẽ viết bậy, ý thức bảo vệ tài sản của nhà trường, vệ sinh môi trường yếu. - Ý thức đấu tranh tự phê bình, góp ý, xây dựng trong các tập thể học sinh giúp bạn tiến bộ còn yếu.(62.6%) 2. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức của học sinh lớp 9 * Nguyên nhân từ gia đình: Gia đình là cái nôi của sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thơ. Trình độ văn hoá, lối sống, phương pháp giáo dục từ gia đình có ảnh hưởng lớn đến nhân cách của trẻ. Qua thực tế chủ nhiệm tôi thấy, phần lớn những học sinh vi phạm đạo đức thường là con cái của các gia đình có hoàn cảnh hoặc khó khăn về kinh tế, bố mẹ dành phần lớn thời gian vào việc làm kinh tế, giao phó việc dạy dỗ con cái cho nhà trường; hay gia đình không hạnh phúc, các mối quan hệ và hành vi trong gia đình thiếu chuẩn mực; bố mẹ thiếu hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi, thiếu kiến thức về giáo dục và chăm sóc con cái... Sự phối hợp của GVCN với phụ huynh và các lực lượng giáo dục trong trường chưa tốt do phụ huynh chưa quan tâm đúng mức ( chỉ tiếp xúc khi được mời hoặc không tiếp xúc vì quá bận). * Nguyên nhân từ xã hội: Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng một xã hội học tập trong đó quyền và nghĩa vụ của người học được gắn bó một cách hữu cơ. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận học sinh tự chối bỏ quyền được học của mình, bởi thế thực tế quyền lợi của một số người học hành đến nơi đến chốn chưa được quan tâm đúng mức và chưa được trọng dụng. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển mình. Cơ chế thị trường len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho nhiều giá trị đạo đức truyền thống ngày càng bọ xói mòn. Cùng với những thành quả đạt được về xây dựng kinh tế thì chúng ta không thể phủ nhận mặt trái của cơ chế thị trường đã làm xuất hiện ngày càng nhiều những tệ nạn xã hội như: rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp trước những cám dỗ của đồng tiền đã làm không ít học sinh sa ngã, gây không ít khó khăn đến việc GDĐĐ cho học sinh. Sự buông lỏng trong quản lý của các cấp, các ngành về những hoạt động dịch vụ văn hoá đã làm xuất hiện ngày càng nhiều các tụ điểm văn hoá không lành mạnh ở gần các trường học và đã lôi kéo một bộ phận học sinh vào các trò giải trí như: bi- da, game, Internet Đây cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiện tượng học sinh trốn học, gây gổ, đánh nhau, trộm cắp, thậm chí vi phạm pháp luật. * Nguyên nhân chủ quan từ học sinh: Đó là những biến đổi tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THCS: sự dậy thì, cơ thể biến đổi nhanh chóng làm thay đổi nhận thức, thái độ của các em về bản thân. Ở giai đoạn này tình cảm của các em chưa bền vững, không ổn định, khả năng làm chủ bản thân, sức đề kháng kém, bản lĩnh còn yếu trước những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài cho nên dễ phát sinh mặc cảm, sự bồng bột, cả tin. Điều này tạo cơ hội cho những hiện tượng tiêu cực trong xã hội dễ dàng thâm nhập vào đời sống tinh thần của các em. * Các nguyên nhân từ việc quản lý, phối hợp các lực lượng giáo dục: Các tổ chức chính trị xã hội nói chung và Đội thiếu niên, Đoàn TNCS HCM nói riêng trong một số trường THCS hoạt động chưa đạt hiệu quả cao, sự phối kết hợp với nhà trường trong GDĐĐ cho học sinh chưa tốt. Sự phối hợp giữa các nhà trường và công an, chính quyền địa phương chưa tốt: một số học sinh vi phạm pháp luật bị đùn đẩy trách nhiệm trong khâu giải quyết, các em vi phạm ở trường được đưa sang công an, chính quyền địa phương và ngược lại. Như vậy, để công tác GDĐĐ học sinh có hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm phải xây dựng được mối quan hệ khăng khít giữa nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 9 CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM 1. Nâng cao nhận thức của giáo viên chủ nhiệm về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9 - Mục đích của biện pháp. Đổi mới, nâng cao nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm để thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc GDĐĐ cho học sinh lớp 9 trong giai đoạn hiện nay. - Nội dung của biện pháp. Giáo viên chủ nhiệm cần chủ động học tập, nâng cao hiểu biết, thấm nhuần chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định, quy chế của Bộ GD & ĐT, các chỉ đạo của Sở GD, Phòng GD về hoạt động GDĐĐ. Có thái độ nghiêm túc trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức công tác GDĐĐ của lớp mình. Giáo viên chủ nhiệm cần nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong việc GDĐĐ cho học sinh thông qua các bài giảng trên lớp, qua thái độ lao động tận tụy, qua phong cách, lối sống mẫu mực của những nhà sư phạm để học sinh noi theo. Đặc biệt giáo viên chủ nhiệm cần phát huy hơn nữa khả năng sư phạm, tình yêu thương học sinh và trách nhiệm lớn của “người mẹ thứ hai” để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Giáo viên chủ nhiệm cần tác động vào đối tượng cha mẹ học sinh để giúp cha mẹ học sinh hiểu rằng việc GDĐĐ cho học sinh không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, của các thầy cô giáo mà gia đình đóng vai trò rất quan trọng trong việc GDĐĐ cho các em. Giáo dục đạo đức trong nhà trường sẽ bị hạn chế nếu không nhận được sự phối hợp, hỗ trợ, sự cộng hưởng về tinh thần trách nhiệm của giáo dục gia đình, trước hết của các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ và những người lớn phải có nghĩa vụ và bổn phận đạo đức trước các em bằng cách giúp các em tìm thấy sự thực chứng đạo đức ở tình cảm - hành vi - lối sống đạo đức của chính họ trong cuộc sống gia đình. Tác động vào các lực lượng xã hội ngoài nhà trường nhằm nâng cao hiểu biết cho các lực lượng xã hội ngoài nhà trường về các quan niệm giáo dục, đặc biệt là quan niệm về giáo dục đạo đức cho học sinh. Yêu cầu sự phối hợp của các lực lượng xã hội ngoài nhà trường với nhà trường thường xuyên và đồng bộ, yêu cầu sự quan tâm thực chất và nhiệt tình hơn nữa từ các cấp lãnh đạo đến các lực lượng xã hội cho giáo dục. Nói chung, nội dung của biện pháp là cần làm cho mọi người hiểu được vai trò của đạo đức trong việc phát triển kinh tế - chính trị - xã hội, phải nắm được hệ thống các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần, định hướng con người vươn tới cái chân - thiện - mỹ . - Cách thức tiến hành. + Thường xuyên tham gia các hội nghị, các khóa tập huấn mà nhà trường, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức nhằm trang bị kiến thức về công tác giáo dục đạo đức cho bản thân. + Tham gia tích cực phong trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt”, “Dân chủ - Kỷ cương - Tình thương - Trách nhiệm”, “Thầy cô giáo mẫu mực – trò chăm ngoan học giỏi”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo”... + Tham gia tích cực các buổi sinh hoạt chuyên đề, các buổi trao đổi kinh nghiệm trong việc “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. + Hưởng ứng các cuộc thi đua nhân các ngày lễ lớn trong năm do nhà trường phát động và nghiêm túc thực hiện trong lớp mình. + Tổ chức các buổi Lễ, Hội trong lớp chu đáo, trang trọng và ấn tượng để nhen lên trong các em những tình cảm gắn bó, yêu thương với trường, với lớp, với gia đình, thầy cô và bạn bè... + Thông qua các cuộc họp cha mẹ học sinh hoặc những lần gặp gỡ giữa nhà trường và gia đình, ngoài việc thông báo tình hình học tập, ý thức kỉ luật của học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần nhắc nhở gia đình về những đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, tránh những hiện tượng người lớn luôn yêu cầu con em mình cư xử như những người trưởng thành (đây là điều khó có thể thực hiện vì các em cần được sống đúng là các em với lứa tuổi hồn nhiên của mình). Cũng cần nhắc nhở cha mẹ các em về hiện tượng nuông chiều con quá mức khiến trẻ sinh ra tính lười biếng, ích kỷ, ỉ lại, thói vô tình và nhẫn tâm, tính bạc nhược, yếu đuối, thiếu ý chí và nghị lực... hay các hiện tượng cư xử với trẻ em quá hà khắc, nghiệt ngã, áp đặt, không công bằng dẫn trẻ hình thành tính bất cần, lì lợm hoặc thui chột sự năng động, sáng tạo của trẻ.... 2. Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh lớp chủ nhiệm từ đầu năm học và lồng ghép vào kế hoạch chung của nhà trường. - Mục tiêu biện pháp. Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh lớp chủ nhiệm từ đầu năm học với mục đích, nội dung thống nhất trong toàn trường, mang tính khả thi và hiệu quả cao. Cần chú ý đến đặc điểm tình hình của lớp, đặc điểm tâm sinh lí và hoàn cảnh của từng học sinh. Đồng thời chú ý lồng ghép kế hoạch GDĐĐ của lớp vào kế hoạch chung của nhà trường nhằm đảm bảo tính hài hoà trong mọi chương trình hoạt động của nhà trường. - Nội dung biện pháp. Xây dựng kế hoạch cho học sinh của lớp trong cả một năm học trên cơ sở kế hoạch tổng thể về giáo dục toàn diện của lớp. Đặc biệt chú ý đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh mà xây dựng, lựa chọn hình thức, nội dung, phương pháp GDĐĐ cho phù hợp. - Cách thức thực hiện. + Khảo sát tình hình học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh khi bắt đầu năm học mới. + Căn cứ vào các chế định giáo dục và đào tạo, các quy định, nhiệm vụ trọng tâm của ngành, của nhà trường trong năm học đó để xây dựng kế hoạch của lớp. 3. Đa dạng hoá nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9 - Mục tiêu biện pháp. Người giáo viên chủ nhiệm phải hiểu sâu sắc mục đích của yêu cầu đa dạng hoá nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, từ đó tích cực, nhiệt tình, sáng tạo trong việc thực hiện biện pháp này. Tạo ra không khí giáo dục nhẹ nhàng, vui tươi, cuốn hút học sinh vào các hoạt động GDĐĐ. Từ đó nâng cao chất lượng công tác GDĐĐ trong nhà trường. - Nội dung biện pháp. Đảm bảo việc triển khai các nội dung GDĐĐ cho học sinh theo đúng yêu cầu chung của ngành song có sự tích hợp với những vấn đề đạo đức trong cuộc sống để đưa việc giáo dục đạo đức gần gũi với hiện tại. Tổ chức các hình thức GDĐĐ trong lớp chủ nhiệm theo hướng đa chiều, phù hợp với các nội dung GDĐĐ đề ra bằng nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, khuyến khích các em rèn luyện kỹ năng sống, điều chỉnh hành vi, thái độ, hình thành những thói quen đạo đức một cách tự nhiên, phù hợp với khả năng và tâm sinh lý lứa tuổi. - Cách thức thực hiện. + Thống nhất mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp GDĐĐ cho học sinh trong lớp, chú ý đến tính phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi học sinh. + Tham gia các lớp tập huấn cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về cách áp dụng, xây dựng nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh theo hướng đổi mới do nhà trường nhà trường và ngành tổ chức. + Tích hợp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các bài giảng trên lớp. Các môn khoa học xã hội và nhân văn có ưu thế nổi bật trong việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho học sinh. Kiến thức trong những môn này có liên quan đến giá trị, thái độ, cách cư xử, hành vi đạo đức trong xã hội. Các môn khoa học tự nhiên
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_giao_duc_dao_duc_cho_hoc.doc