Báo cáo biện pháp Hướng dẫn cách viết đoạn văn nghị Luận văn học cho học sinh lớp 9

Trong bộ Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành, phân môn Tập làm văn được biên soạn trên cơ sở vận dụng lí thuyết văn bản, nên việc dạy và học phân môn này đã có những bước tiến đáng kể. Trong đó, việc dạy Tập làm văn đã rất chú trọng dạy tạo lập đoạn văn, bởi vì nó là một bộ phận của toàn văn bản. Một văn bản được tạo thành từ nhiều đoạn văn, do đó học sinh sẽ không thể thực sự viết được một bài văn nếu trước hết không tập trung viết từng đoạn cho tốt.

 Dạng văn nghị luận các em cũng được học từ lớp 7 với các bài khái quát về đặc điểm văn nghị luận, phép lập luận chứng minh, giải thích. Lớp 8 học tiếp văn nghị luận, về cách nói và viết bài văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả. Ở lớp 9 đã có sự kế thừa, nâng cao kiến thức về văn nghị luận. Văn nghị luận thực chất là văn bản thuyết lí, nhằm phát biểu các nhận định, tư tưởng, suy nghĩ, quan điểm, thái độ, thuyết phục mọi người tin theo mà có thái độ, hành động đúng trước một vấn đề đặt ra. Do đó, muốn làm văn nghị luận tốt, người ta phải có quan điểm, chủ kiến rõ ràng. Đó là những quan điểm, chủ kiến tích cực, phỉa hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống cộng đồng thì mới có ý nghĩa. Trong chương trình lớp 9, các em học văn nghị luận xã hội (nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống, nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí) và nghị luận văn học (nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ). Nghị luận văn học đòi hỏi học sinh phải trình bày được những nhận xét và đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, cốt truyện, tính cách nhân vật hoặc cảm thụ, nhận xét, đánh giá về cái hay, cái đẹp của một đoạn thơ hoặc bài thơ. Thông thường, những nhận xét đánh giá này được trình bày thành luận điểm khái quát cho toàn bài, sau đó phải phân tích luận điểm khái quát đó thành các luận điểm cụ thể hơn tương ứng với các đoạn văn. Bởi vậy nếu không có kĩ năng viết đoạn văn thì bài văn của các em rất dễ rơi vào rơi rạc, lan man, thiếu tính lô-gic, hệ thống.

 

doc 29 trang Chí Tường 21/08/2023 3980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Hướng dẫn cách viết đoạn văn nghị Luận văn học cho học sinh lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Hướng dẫn cách viết đoạn văn nghị Luận văn học cho học sinh lớp 9

Báo cáo biện pháp Hướng dẫn cách viết đoạn văn nghị Luận văn học cho học sinh lớp 9
au để hoàn thành một đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc Tổng hợp – Phân tích - Tổng hợp:
“Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Kiều hiện lên là người con gái thuỷ chung, hiếu thảo, vị tha.”
- Nhìn chung, với những dạng đề này, ta không phải viết câu chủ đề, chỉ việc phát triển ý, trình bày thành các câu phát triển để làm sáng rõ câu chủ đề trên.
* Dạng 3: Đề yêu cầu sửa một câu có lỗi thành câu đúng và dùng câu đó làm câu chủ đề.
- Đề 1: Khi viết đoạn văn phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm: “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, một bạn học sinh đã viết câu mở đoạn như sau: 
“Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm:“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vừa là người phụ nữ thuỳ mị nết na, tư dung tốt đẹp lại là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, là người vợ thuỷ chung với chồng, là người mẹ hiền của con chồng”.
 Chỉ ra các lỗi trong câu văn trên? Hãy viết câu văn sau khi đã sửa lại cho đúng ?
- Đề 2:
 a. Chép lại câu viết dưới đây, sau khi đã sửa hết các lỗi chính tả, ngữ pháp:
"Trong truyện "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê bằng những nét đặc xắc trong cách miêu tả nhân vật và cách kể truyện đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, dũng cảm vượt khó khăn gian khổ, hi sinh lạc quan trong cuộc sống chiến đấu của những cô gái thanh niên sung phong trên tuyến đường Trường Sơn".
b. Dùng câu văn đă sửa trên làm phần mở đoạn viết tiếp 8 - 10 câu, phần kết đoạn là một câu cảm thán.
- Với các đề trên, ta phải đọc kĩ câu văn đã cho để tìm được các lỗi chính tả và lỗi ngữ pháp, sau đó sửa lại cho đúng để sử dụng câu đó làm câu chủ đề. 
Dạng 4: Đề có phần dẫn ý, dựa vào đó ta có thể xác định được câu chủ đề.
- Đề 1: Trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã sáng tạo chi tiết cái bóng trên tường rất đặc sắc. Hãy viết đoạn văn khoảng 10 câu theo lối diễn dịch trình bày cảm nhận của em về chi tiết đó.
- Đề 2: Nhận xét về đoạn kết trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng đó là một kết thúc có hậu, lại có ý kiến cho rằng đó là kết thúc không có hậu.
 Hãy viết đoạn văn khoảng 15 câu trình bày suy nghĩ của em về vấn đề này.
- Với đề 1: Dựa vào phần dẫn ý của đề, ta có thể viết câu chủ đề: “Trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã sáng tạo chi tiết cái bóng trên tường rất đặc sắc”.
- Với đề 2: Ta có thể viết câu chủ đề: “Nhận xét về đoạn kết trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng đó là một kết thúc có hậu, lại có ý kiến cho rằng đó là kết thúc không có hậu”. 
Hoặc Kết thúc tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”của Nguyễn Dữ là một kết thúc vừa có hậu lại vừa không có hậu”.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh tìm ý cho đoạn văn.
Khi đã xác định được câu chủ đề của đoạn văn, cần vận dụng các kiến thức đã học có liên quan để phát triển chủ đề đó thành các ý cụ thể, chi tiết. Nếu bỏ qua thao tác này, đoạn văn dễ rơi vào tình trạng lủng củng, quẩn ý. 
Ví dụ: Với đề bài: Viết đoạn văn diễn dịch từ 8 đến 10 câu, phân tích 4 câu thơ đầu trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
 Cần xác định các ý:
 - Bốn câu thơ đầu là cảm nhận tinh tế, bất ngờ của nhà thơ trước những tín hiệu thu về ở không gian gần và hẹp.
- Cảm nhận bằng khứu giác và xúc giác:
+ Hương ổi và cái se lạnh của gió lan tỏa trong không gian nơi vườn thôn, ngõ xóm.
+ Từ “phả” gợi hương thơm như sánh lại, luồn vào trong gió.
- Cảm nhận bằng thị giác: Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa qua từ “chùng chình” -> diễn tả sương thu có ý chậm lại, quấn quýt bên ngõ xóm đường làng.
 - Cảm xúc: 
+ “Bỗng”: cảm giác bất ngờ.
+ “Hình như”: cảm giác mơ hồ, mong manh, chưa rõ ràng.
-> Sự giao thoa của tạo vật và cảm xúc ngỡ ngàng, xao xuyến của nhà thơ.
Bước 4: Liên kết các ý thành đoạn văn hoàn chỉnh
Trên cơ sở các ý vừa tìm, viết thành đoạn văn. Căn cứ vào yêu cầu về kiểu diễn đạt để xác định vị trí câu chủ đề và cách lập luận trong đoạn văn. Ngoài ra còn đảm bảo các yêu cầu về ngữ pháp (nếu có).
Ví dụ: Với đề trên (bước 3) cần đặt câu chủ đề ở đầu đoạn văn, sắp xếp các ý viết thành đoạn văn đủ số câu, đánh thứ tự các câu trong đoạn, trình bày thành đoạn văn đảm bảo sự liên kết cả nội dung lẫn hình thức.
 (1) Khổ thơ thứ nhất của bài thơ “Sang thu”của Hữu Thỉnh là những cảm nhận tinh tế ban đầu của nhà thơ về tín hiệu thu về: 
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
(2)Sự chuyển biến của tạo vật với những đặc trưng của thu về đã đánh thức giác quan tinh tế của nhà thơ. (3) Bắt đầu bằng hương ổi thơm náo nức “phả” vào trong “gió se”, cơn gió đặc trưng của mùa xuân đất Bắc. (4) Từ “phả” gợi hương thơm như sánh lại, đậm đà, luồn vào trong ngõ làm thức dậy cả không gian vườn ngõ. (5) Từ “bỗng” thể hiện sự bất ngờ, đột ngột có phần ngỡ ngàng, ngạc nhiên của tác giả trước sự thay đổi của thời tiết, thiên nhiên. (6) Và tín hiệu thu về không chỉ là gió, là hương ổi, mà còn là sương. (7)“Sương chùng chình qua ngõ”. (8)“Chùng chình” là cố ý đi chậm lại, giăng mắc nơi đường thôn ngõ xóm. (9) Biện pháp nhân hóa khiến làn sương như có tâm trạng bâng khuâng, bịn rịn, ngập ngừng, lưu luyến, làm cho cảnh thêm hữu tình. (10)Tình thái từ “hình như” thể hiện sự mơ hồ, chưa rõ ràng, chưa chắc chắn, đã miêu tả thật chính xác tâm trạng ngỡ ngàng của thi sĩ trước sự thoáng đi bất chợt của mùa thu.
Trong đoạn trên, câu 1 là câu mở đoạn, nêu ý chủ đề của cả đoạn văn. Các câu còn lại (từ câu 2 đến câu 12), nêu các ý cụ thể, phân tích nội dung, nghệ thuật của sáu câu thơ.
3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh luyện tập qua các dạng bài tập
3.1. Dạng bài tập nhận biết: 
- Mục đích của bài tập là cung cấp cho học sinh các dạng đoạn văn cụ thể, trên cơ sơ đó các em nhận biết được mô hình cấu trúc đoạn, từ ngữ chủ đề, câu chủ đề. Và cao hơn là cách trình bày các luận cứ để dẫn đến luận điểm. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà ra bài tập với những yêu cầu nhận biết các đoạn văn trình bày theo cách phổ biến thông dụng hay cách mở rộng, nâng cao.
Bài tập 1: Đoạn văn sau là đoạn phân tích tâm trạng của Kiều khi ở Lầu Ngưng Bích. Hãy xác định câu chủ đề, các từ ngữ chủ đề của đoạn văn? Nội dung đoạn văn được triển khai như thế nào?
Sáu câu thơ đầu gợi tả hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích. (1) Hai chữ “khóa xuân” cho thấy đây thực chất là bị giam lỏng. (2) Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. (3) Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông”. (4) Cảnh “non xa”, “trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước. (5) Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. (6) Cái lâu chơi vơi ấy giam một thân phận trơ trọi, xung quanh không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người. (7)Hình ảnh “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều. (8) Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. (9) Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. (10) Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân”. (10) Nàng chỉ biết làm bạn với “mây sớm, đèn khuya”. (11) Nàng đã rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối. (12)
 Mô hình đoạn văn: Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn văn gọi là câu chủ đề, 11 câu còn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ đề. Đây là đoạn văn phân tích có kết cấu diễn dịch. Từ ngữ chủ đề: Kiều, nàng, Ngưng Bích, hoàn cảnh, tâm trạng, cảnh, hình ảnh...	Nh­ vËy, viÖc rÌn luyÖn kÜ n¨ng viÕt ®o¹n v¨n nãi chung vµ viÕt ®o¹n v¨n biÓu c¶m nãi riªng gi¸o viªn ph¶i ®Þnh h­íng cho c¸c em biÕt ®èi chiÕu gi÷a thùc hµnh vµ lÝ thuyÕt, ®èi chiÕu kÕt qu¶ thùc hµnh cña m×nh víi yªu cÇu chung Nh­ vËy, viÖc rÌn luyÖn kÜ n¨ng viÕt ®o¹n v¨n nãi chung vµ viÕt ®o¹n v¨n biÓu c¶m nãi riªng gi¸o viªn ph¶i ®Þnh h­íng cho c¸c em biÕt ®èi chiÕu gi÷a thùc hµnh vµ lÝ thuyÕt, ®èi chiÕu kÕt qu¶ thùc hµnh cña m×nh víi yªu cÇu chung Nh­ vËy, viÖc rÌn luyÖn kÜ n¨ng viÕt ®o¹n v¨n nãi chung vµ viÕt ®o¹n v¨n biÓu c¶m nãi riªng gi¸o viªn ph¶i ®Þnh h­íng cho c¸c em biÕt ®èi chiÕu gi÷a thùc hµnh vµ lÝ thuyÕt, ®èi chiÕu kÕt qu¶ thùc hµnh cña m×nh víi yªu cÇu chung Nh­ vËy, viÖc rÌn luyÖn kÜ n¨ng viÕt ®o¹n v¨n nãi chung vµ viÕt ®o¹n v¨n biÓu c¶m nãi riªng gi¸o viªn ph¶i ®Þnh h­íng cho c¸c em biÕt ®èi chiÕu gi÷a thùc hµnh vµ lÝ thuyÕt, ®èi chiÕu kÕt qu¶ thùc hµnh cña m×nh víi yªu cÇu chung Nh­ vËy, viÖc rÌn luyÖn kÜ n¨ng viÕt ®o¹n v¨n nãi chung vµ viÕt ®o¹n v¨n biÓu c¶m nãi riªng gi¸o viªn ph¶i ®Þnh h­íng cho c¸c em biÕt ®èi chiÕu gi÷a thùc hµnh vµ lÝ thuyÕt, ®èi chiÕu kÕt qu¶ thùc hµnh cña m×nh víi yªu cÇu chung Nh­ vËy, viÖc rÌn luyÖn kÜ n¨ng viÕt ®o¹n v¨n nãi chung vµ viÕt ®o¹n v¨n biÓu c¶m nãi riªng gi¸o viªn ph¶i ®Þnh h­íng cho c¸c em biÕt ®èi chiÕu gi÷a thùc hµnh vµ lÝ thuyÕt, ®èi chiÕu kÕt qu¶ thùc hµnh cña m×nh víi yªu cÇu chung	
 Bài tập 2: Đoạn văn sau trình bày nội dung theo cách nào? Chỉ rõ cách trình bày nội dung đoạn văn? 
“Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ:
	Đêm nay rừng hoang sương muối
	Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo (1).
Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm súng (2). Bất chợt chiến sĩ ta có một phát hiện thú vị: “Đầu súng trăng treo”(3). Câu thơ như một tiếng reo vui hồn nhiên mà chứa đựng đầy ý nghĩa (4). Trong sự tương phản giữa súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được sự gắn bó gần gũi (5). Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược (6). Trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui (7). Khẩu súng và vầng trăng là hình tượng sóng đôi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam bất khuất và hào hoa muôn thuở (8). Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng đã hoà quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ tuyệt tác để đời (9).”
Mô hình đoạn văn: Tám câu đầu triển khai phân tích hình tượng thơ trong đoạn cuối bài thơ “Đồng chí”, từ đó khái quát vấn đề trong câu cuối – câu chủ đề, thể hiện ý chính của đoạn: đánh giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn phân tích thơ có kết cấu quy nạp. Nội dung phân tích đoạn kết bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.. 
 Bài tập 3: Đoạn văn dưới đây lập luận theo cách tổng - phân - hợp phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Chỉ rõ cách lập luận trong đoạn văn?
 “Ngay từ khổ thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những tín hiệu riêng của mùa thu.(1) Không phải là những rừng phong sắc đỏ, giậu cúc vàng, lá ngô đồng rơi hay ao sen tàn lạnh... như trong thơ cổ. (2) Cũng không phải là màu trời xanh ngắt hay làn nước biếc trong như trong thơ thu Nguyễn Khuyến...(3)Tín hiệu của mùa thu này là làn hương ổi “ phả vào trong gió se”.(4) Phải có “gió se”thì mới có hương thơm nồng đậm thế.(5) Làn gió heo may trong mát với thoáng chớm lạnh đầu mùa như biết thanh lọc, chắt chiu để có được mùi hương ấy.(6) Gió đưa làn hương đi theo khắp nẻo, như để “thông báo” với đất trời, với hồn người một tín hiệu vui: mùa thu đang tới!(7) Chỉ bằng vài nét vẽ, nhà thơ đã nắm bắt, tái hiện được vẻ đẹp mơ hồ, tinh tế của khoảnh khắc giao mùa.(8)”
Mô hình đoạn văn: Đoạn văn gốm tám câu:
- Câu đầu (tổng): Nêu lên nhận định khái quát về khổ đầu bài “ Sang thu” của Hữu Thỉnh mang đến cho người đọc những tín hiệu riêng của mùa thu.
- Năm câu tiếp ( phân): Phân tích để chứng minh những tín hiệu riêng đó.
- Câu cuối (hợp): Khẳng định, nâng cao: chỉ bằng vài nét vẽ, nhà thơ đã nắm bắt, tái hiện được vẻ đẹp mơ hồ, tinh tế của khoảnh khắc giao mùa.
Nhìn chung, đây là dạng bài tập nhận biết tương đối vừa sức với học sinh trong bước đầu rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận. Trên cơ sở nhận biết được những dạng mô hình này, học sinh dễ dàng đi vào vận dụng làm bài tập ở mức độ cao hơn.
Một số bài tập củng cố: 
Bài 1: Chỉ rõ cách lập luận trong đoạn văn sau:
Hai câu cuối của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lá xe trên tuyến đường Trường Sơn:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
 Chỉ cần trong xe có một trái tim
Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ trở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bởi phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nước vẫn đang tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế, hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ người lính lái xe, chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn. Hình ảnh này kết hợp cùng với kết cấu câu “vẫn – chỉ cần” đã lí giải về sức mạnh vượt khó khăn, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
	Bài 2: Chỉ rõ cách lập luận trong đoạn văn sau:
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi
 Bụi phun tóc trắng như người già
 Không cần thay lái trăm cây số nữa
 Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn hóm hỉnh, cấu trúc: “không có”, “ừ thì”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi” làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!
3.2. Dạng bài tập thông hiểu và vận dụng
3.2.1. Viết câu chủ đề cho đoạn văn
Trong văn nghị luận, câu chủ đề là câu đặc biệt quan trọng. Khi phân tích đoạn trích hay tác phẩm, câu chủ đề phải nêu được nội dung chính cần phân tích. Viết được câu chủ đề có thể coi là có được chìa khoá để mở vấn đề. Vì vậy, đây là dạng đề theo tôi không kém phần quan trọng trong việc rèn kĩ năng viết đoạn cho học sinh. Với dạng bài này, có thể có một số bài tập cụ thể sau:
a/ Cho câu chủ đề viết còn mắc lỗi về ngữ pháp, diễn đạt, yêu cầu học sinh sửa lại cho chuẩn:
Ví dụ: Bài tập 1
Khi viết đoạn văn nêu suy nghĩ của mình sáu câu thơ đầu của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bạn học sinh đã viết câu mở đọan như sau: 
“Trong sáu câu thơ đầu của bài Mùa xuân nho nhỏ đã cho thấy vẻ đẹp của mùa xuân và cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp ấy”.
Chỉ ra các lỗi trong câu văn trên? Hãy viết câu văn sau khi đã sửa lại cho đúng?
Yêu cầu với bài tập:
- Chỉ ra các lỗi trong câu văn: 
+ Câu chủ đề còn dài, người viết nhầm trạng ngữ là chủ ngữ của câu dẫn đến câu văn trên thiếu chủ ngữ.
- Viết lại câu chủ đề: “Trong sáu câu thơ đầu của bài Mùa xuân nho nhỏ, tác giả Thanh Hải đã cho ta thấy vẻ đẹp của mùa xuân và cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp ấy”.
 Bài tập 2
 a. Chép lại câu viết dưới đây, sau khi đã sửa hết các lỗi chính tả, ngữ pháp:
"Trong truyện "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê bằng những nét đặc xắc trong cách miêu tả nhân vật và cách kể truyện đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, dũng cảm vượt khó khăn gian khổ, hi sinh lạc quan trong cuộc sống chiến đấu của những cô gái thanh niên sung phong trên tuyến đường Trường Sơn".
b. Dùng câu văn đã sửa trên làm phần mở đoạn viết tiếp 8 - 10 câu, phần kết đoạn là một câu cảm.
Yêu cầu của bài tập:
a. Sửa lỗi chính tả và lỗi ngữ pháp:
Trong truyện "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê, bằng những nét đặc sắc trong cách miêu tả nhân vật và cách kể chuyện, tác giả đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, dũng cảm vượt khó khăn gian khổ, hi sinh, lạc quan trong cuộc sống, chiến đấu của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
 b. Viết đoạn: Các câu phát triển
 Họ là những cô gái thanh niên xung phong có tâm hồn trong sáng, hay mơ mộng dễ vui nhưng cũng dễ trầm tư. Họ rất nữ tính, thích làm đẹp ngay nơi chiến trường khói lửa. Nho thích thêu thùa. Thao chăm chép bài hát, hay làm dáng. Phương Định thích ngắm mình trong gương, bó gối mơ mộng và thích hát. Đặc biệt họ rất dũng cảm vượt khó khăn, gian khổ, hi sinh, lạc quan trong cuộc sống, chiến đấu. Công việc của họ rất nguy hiểm, đối mặt với thần chết hàng ngày, hàng giờ nhưng họ sẵn sàng nhận việc phá bom mà không cần sự trợ giúp của đơn vị, dám đối mặt với thần chết mà không hề run sợ. Họ luôn có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ, luôn đặt nhiệm vụ lên trên cả tính mạng. Có lúc họ nghĩ đến cái chết khi nguy hiểm kề bên nhưng điều ấy chỉ thoáng qua rất mờ nhạt nhường chỗ cho ý nghĩ liệu bom có nổ? Làm thế nào để những quả bom kia phải nổ?
Câu kết đoạn là câu cảm thán:
Họ chính là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến oai hùng của dân tộc!
Trong các bài tập trên, bài tập 1 là dạng bài đơn giản được thực hiện ở đầu năm học, còn bài tập 2 có nhiều yêu cầu phức tạp hơn, không chỉ viết câu chủ đề mà là viết cả các câu phát triển, và không phải chỉ có yêu cầu viết đoạn mà còn có cả yêu cầu ngữ pháp kèm theo, vì đây là bài tập được thực hiện vào cuối năm học khi các kĩ năng viết đoạn của học sinh đã cơ bản được củng cố, thành thạo và cần rèn luyện thêm các yêu cầu khác cho quen với dạng đề thi vào lớp10 THPT.
b/ Cho đoạn thơ hoặc đoạn văn cần phân tích, yêu cầu học sinh xác định câu chủ đề cho đọan đó.
Ví dụ: Bài tập 1: Cho đoạn thơ sau:
 “Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
 (Trích “Cảnh ngày xuân”- Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Hãy viết câu chủ đề cho đoạn văn phân tích đoạn thơ trên?
Bài tập 2: Khi phân tích sáu câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, em sẽ viết câu chủ đề như thế nào?
 Thực chất yêu cầu viết câu chủ đề cũng chính là yêu cầu xác định nội dung cần viết trong đoạn văn. Muốn viết được câu chủ đề, học sinh phải nắm được nội dung của đoạn thơ, đoạn văn mà đề yêu cầu phân tích. Điều này các em phải tích hợp kiến thức ở cả ba phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn.
Với bài tập 1, ta có thể viết câu chủ đề: 
“Bốn câu thơ đầu đoạn trích“Cảnh ngày xuân”(Trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du) là bức họa tuyệt đẹp về khung cảnh thiên nhiên mùa xuân.
Hoặc: Chỉ bằng vài nét chấm phá, Nguyễn Du đã vẽ nên bức hoạ tuyệt đẹp về khung cảnh thiên nhiên mùa xuân.
Với bài tập 2, ta có thể viết câu chủ đề: 
“Sáu câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bức tranh tả cảnh ngụ tình thật đặc sắc”.
Hoặc: “Sáu câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đỉnh cao của bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”.
Một số bài tập củng cố: 
Bài 1: Hãy viết câu chủ đề cho đoạn văn phân tích đoạn thơ sau:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
 Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
 Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
 (Viếng lăng Bác – Viễn Phương)
Bài 2: Viết câu chủ đề cho đoạn văn phân tích đoạn thơ sau:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
 Đã vơi dần cơn

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_huong_dan_cach_viet_doan_van_nghi_luan_van.doc