Báo cáo biện pháp Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua tiết dạy thanh lịch – văn minh

Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Nhà xuất bản Hà Nội biên soạn bộ tài liệu “Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Hà Nội” để đưa vào giảng dạy cho học sinh tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trong hệ thống nhà trường trên địa bàn thành phố.

Bộ tài liệu được biên soạn nhằm khơi dậy niềm tự hào được kế thừa truyền thống thanh lịch, gìn giữ nét văn hóa đặc trưng của người Hà Nội, qua đó tạo sự chuyển biến từng bước về nhận thức, hành vi cho học sinh, góp phần đào tạo, xây dựng thế hệ người Hà Nội thanh lịch, văn minh, xây dựng Thủ đô và đất nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh.

Tài liệu tập trung vào việc giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh, một khía cạnh của lối sống văn hóa. Nội dung chủ yếu là định hướng hành vi kết hợp với chỉ dẫn hành vi thanh lịch, văn minh cho học sinh trong sinh hoạt, trong giao tiếp, ứng xử giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên, môi trường.

Theo ông Đoàn Hoài Vĩnh – Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội, bộ tài liệu “Giáo dục nếp sống thanh lịch – văn minh” đưa vào giảng dạy trong các trường phổthông ở Hà Nội nhằm khơi dậy niềm tự hào của các thế hệ học sinh đồng thời kế thừa truyền thống thanh lịch, nét văn hóa đặc trưng của người Hà Nội.

 

docx 30 trang Chí Tường 21/08/2023 4660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua tiết dạy thanh lịch – văn minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua tiết dạy thanh lịch – văn minh

Báo cáo biện pháp Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua tiết dạy thanh lịch – văn minh
 rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh.
 Khái niệm về thanh lịch – văn minh và nếp sống thanh lịch – văn minh
Thanh lịch văn minh là nét đẹp truyền thống đã được nhiều người dân Hà Nội tạo nên và lưu giữ . Trân trọng kế thừa và phát huy nét đẹp ấy trong đời sống người Hà Nội hôm nay và mai sau là trách nhiệm , là niềm tự hào và vinh dự của người dân thủ đô trông đó có thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường.
Nếp sống thanh lịch văn minh của người Hà Nội có những biểu hiện vô cùng phong phú và có giá trị văn hóa cao. Đó là những nét đẹp đặc trưng của người Hà Nội _ một thứ nếp sống bao quát trên nhiều mặt: Ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn chơi, ăn học, ăn uống, ăn nói cho đến giữ gìn nếp nhà Hà Nội; phép lịch sự thân thiện, trung thực, khách quan rất quan trọng trong giao tiếp và quan hệ tình cảm, đạo lí giữa người với người. “Ăn” ở đây theo phong cách nói đệm dân gian, không theo nghĩa đen như trong ăn uống. Thanh lịch chỉ là phong cách ứng xử, giao tiếp nền nã, mềm dẻo, văn minh, tế nhị lối sống hào hoa phong nhã của người kinh thành kẻ chợ; chỉ nhìn vào trang phục, dáng đi, nghe tiếng nói là nhận ra ngay.Truyền thống “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” là tinh hoa tích tụ từ hàng nghìn năm, từ trăm miền đất nước bồi đắp nên nét đẹp văn hoá Thăng Long – Hà Nội đáng quý, mang đậm giá trị của sự lịch lãm, tinh tế, hào hoa, mềm mỏng, thông tuệ, nghĩa hiệp, nhân ái, tôn trọng kỉ cương, luật lệ và phép nước
. Thanh lịch là gì ?
Thế nào là “Thanh lịch”? Hai tiếng “Thanh lịch” bao hàm nghĩa rộng của cả một phong cách sống cao đẹp, từ trong nhà ra ngoài xã hội, từ cách ăn, mặc, ở, đi đứng, bên cách giao tiếp ứng xử giữa người với người, với tinh thần tự trọng mình và tôn trọng mọi người trong cộng đồng. “Thanh” là cách suy nghĩ biết trọng điều thanh cao trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, cao thượng mà vẫn gần gũi, bình dị, không ích kỷ, nhỏ nhen tầm thường. Thanh liêm đối với của cải xã hội và của người khác.Thanh đạm, thanh bạch trong cuộc sống đời thường. Thanh nhã trong thái độ, cử chỉ, hành vi, nói năng.
“Lịch” là sự lịch lãm, có nghĩa là xem nhiều, quan sát nhiều. Lịch duyệt là người hiểu biết rộng.Lịch thiệp là đã từng đi nhiều, thành thạo trong giao tiếp.Lịch sự là thể hiện cách ứng xử văn hóa, văn minh, thân thiện. Muốn có “Thanh” thì con người phải rèn luyện. Còn “Lịch” là do sự từng trải, biết sàng lọc tích lũy kinh nghiệm trường đời mà có. Cho nên, “Thanh lịch” phải đi liền mới đầy đủ và trọn vẹn ý nghĩa.Bởi vì trong thực tế cuộc sống, có người chỉ “Thanh” mà không “Lịch”, có người chỉ “Lịch” mà không “Thanh”.
Như vậy, thanh lịch là một khuynh hướng thẩm mỹ thiên về sự nhã nhặn và lịch thiệp đã trở thành nét đẹp trong nếp sông người Hà Nội . Đó là nét đẹp hài hòa của diện mạo và phong cách, hành vi sự tu dưỡng trải nghiệm của con người .Và biểu hiện ở chiều sâu như một tính cách cơ bản, hồn cốt của con người, là lối sống văn hóa phù hợp với thời đại.
. Văn minh là gì ?
Là nền văn hóa có đặc trưng tiêu biểu của một xã hội rộng lớn, một thời đại hay một cả nhân loại. Văn minh biểu hiện ở trình độ phát triển cao của văn hóa về phương diện vật chất theo hướng xóa bỏ những cái lạc hậu, thấp kém để xây dựng một xã hội tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn.
 Thực trạng vấn đề :
Theo lãnh đạo Sở Giáo dục và Ðào tạo Hà Nội, thông qua việc giảng dạy nếp sống văn minh thanh lịch, đã có chuyển biến tích cực về mặt nhận thức, lối sống ứng xử, giao tiếp của các em học sinh, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức. Tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm khá, tốt toàn thành phố tăng từ 0,9% đến 2,1% so với thời điểm chưa giảng dạy tài liệu ở mỗi cấp học. Học sinh cũng nâng cao tinh thần tương thân, tương ái, góp phần nâng cao ý thức tích cực, tự giác trong học tập, nhiệt tình trong việc xây dựng bài vở, chất lượng văn hóa tiến bộ rõ rệt. Cũng từ đây, chất lượng giáo dục đạo đức, truyền thống lịch sử Thủ đô và phong cách người Hà Nội cho học sinh có chuyển biến. Học sinh đã ý thức được trách nhiệm trong việc gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa của người Hà Nội.
Mặc dù đạt được những kết quả bước đầu, nhưng trên thực tế, hằng ngày chúng ta vẫn bắt gặp nhiều biểu hiện thiếu văn hóa của các em. Không hiếm học sinh nói tục, chửi bậy, khi tan học đi dàn hàng ngang cản trở giao thông, nhiều học sinh đi xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm... Thậm chí, còn xảy ra một số trường hợp học sinh đánh nhau, trong khi đó thì một số em khác quay hình, chụp ảnh để đưa lên mạng. Việc học sinh trung học có biểu hiện tình cảm nam nữ thân mật quá mức ở nơi công cộng không phải chuyện hiếm... Ðiều này cho thấy, để tạo chuyển biến một cách đồng bộ trong xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch đối với học sinh Thủ đô còn nhiều việc phải làm.
Việc giảng dạy bộ tài liệu này không chấm điểm, không tính vào kết quả học tập, cho nên rất dễ xảy ra tình trạng học sinh tham gia tiết học cho có, nhận thức chưa đủ sâu sắc để làm thay đổi hành vi, thói quen của các em. Thậm chí, còn có các thầy cô giáo không dạy mà chỉ báo bài cho khớp với lịch báo giảng và sổ ghi đầu bài. Hơn nữa, việc hình thành nếp sống văn minh, thanh lịch phải là quá trình rèn giũa thường xuyên, liên tục chứ không chỉ trông chờ vào những tiết học. Bởi thế, mỗi thầy giáo, cô giáo trước hết phải là tấm gương về ứng xử văn minh, thanh lịch trong từng lời nói, việc làm ở nhà trường cũng như ngoài xã hội cho học sinh noi theo. Có những học sinh rất băn khoăn khi học bài An toàn giao thông trong bộ tài liệu, tài liệu tuyên truyền về Luật Giao thông đường bộ, nhưng khi bố mẹ đưa đón các em đi học lại vượt đèn đỏ, đi trái làn đường... Có thể thấy, hiệu quả của việc giảng dạy bộ tài liệu "Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh" không chỉ phụ thuộc vào nhà trường, mà mỗi phụ huynh cũng cần nâng cao trách nhiệm của mình trong việc dạy dỗ con em mình.
Các biện pháp tiến hành :
Như đã nói ở tên có rất nhiều biện pháp giáo dục học sinh nhưng trong khuôn khổ của bài nghiên cứu này, tôi chỉ đề cập đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh được phát huy thông qua các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt hoạt đội, ngoại khóa, các giờ giáo dục công dân, và các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp mà cụ thể là tiết Thanh lịch – văn minh. Cụ thể, tôi đã giáo dục học sinh trên các mặt sau :
Cách đi đứng, giao tiếp.
Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các tiết học thanh lịch, văn minh là vô cùng hữu dụng với cả giáo viên và học sinh. Nó đã giáo dục học sinh những nét khái quát nhất thế nào là người thanh lịch, văn minh đến những chi tiết như tìm hiểu phục trang, nơi ở, cách ăn uống của người Hà NộiTruyền thống “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” là tinh hoa tích tụ từ hàng nghìn năm, từ trăm miền đất nước bồi đắp nên nét đẹp văn hoá Thăng Long – Hà Nội đáng quý, mang đậm giá trị của sự lịch lãm, tinh tế, hào hoa, mềm mỏng, thông tuệ, nghĩa hiệp, nhân ái, tôn trọng kỉ cương, luật lệ và phép nước
Cách ăn nói.
Tiếng nói Hà Nội tiêu biểu cho tiếng nói của dân tộc Việt Nam. Người Hà Nội không quen cách nói cộc lốc, trống không, xách mé, trịch thượng, chỏng lỏn, ngoa ngoắt, thô tục. Họ biết chọn những từ ngữ thanh thoát để nói những điều xấu nhất, bẩn nhất, thói quen tuỳ tiện nhất mà không làm “nhơ tai ” người nghe. Trong xưng hô giữ trật tự kỉ cương, trọng già quý trẻ, không tự đề cao mình cũng như không xun xoe, xu nịnh. Ai giúp đỡ việc gì biết cảm ơn, làm điều sai, lỡ va chạm biết xin lỗi. Không “đao to búa lớn” nơi công cộng, chốn chợ búa, khéo léo mềm mỏng dàn xếp mọi xích mích, tranh chấp không để “bé xé ra to”. Một sự nhẫn là chín sự lành, nhẫn nhịn chứ đâu phải nhẫn nhục. Nói là làm, giữ chữ tín với khách hàng, tự trọng mình và tôn trọng người.
Cách ăn mặc.
Trong trang phục, người Hà Nội ưa gọn gàng, trang nhã, chỉnh tề. Họ biết diện, biết làm đẹp kín đáo mà không phô trương, khoe khoang lố lăng. Họ bảo tồn chất dân tộc phương Đông, lại biết cách tân lành mạnh, không thủ cựu, không hở hang, phơi bày tự do lộ liễu như người phương Tây.
Cách ăn uống.
Tập quán ăn uống của người Hà Nội rất tế nhị. Ăn không gắp mãi miếng ngon, uống không dốc chén cả cặn. Tiếp cho khách, cho người bậc trên trước khi gắp cho mình. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Coi trọng chất hơn là lượng, ăn để thòm thèm, nhớ mãi chứ không ăn đến quá no, quá chán. Người Hà Nội rất sành ăn nên cũng giỏi nấu nướng, chế biến, quan tâm từ chút gia vị đến cách trình bày món ăn sao cho đẹp mắt. Đâu phải cứ cao lương mĩ vị, đặc sản mới là ngon, dưa cà gia bản có khi quý hơn, ngon miệng hơn cả tiệc xếp tùng cao lương mĩ vị. Đặc biệt, quà Hà Nội vừa thanh cảnh, vừa hấp dẫn thực khách bốn phương. Mọi biểu hiện ăn uống phàm tục đều không phù hợp với chất Hà Nội. Năm mươi năm qua do chiến tranh, do nhu cầu của nhân lực cho sự phát triển, số dân Hà Nội gia tăng gấp hàng chục lần.
Cách ứng xử.
Nhằm hướng dẫn kỹ năng sống có văn hóa cho HS phổ thông, định hướng và chỉ dẫn hành vi cá nhân trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử thanh lịch, văn minh cho các em nên nội dung của Bộ tài liệu tập trung vào 5 vấn đề cơ bản: Khái niệm TLVM; Phong cách TLVM; Giao tiếp TLVM; Ứng xử TLVM nơi công cộng; Ứng xử TLVM với thiên nhiên môi trường. Tùy theo từng cấp học, các nội dung giáo dục được đưa vào với cấp độ khác nhau. Trong đó, ở lớp 7, các em được tập trung vào hai cách giao tiếp, ứng xử chính là : gia đình và nhà trường.
Giao tiếp, ứng xử trong gia đình.
 	Từ xa xưa, văn hoá ứng xử trong gia đình đã được ông cha ta đặc biệt coi trọng: Gia đình phải có gia giáo; gia lễ; gia pháp; gia phong mà mỗi người trong gia đình phải tuân thủ theo hết sức nghiêm ngặt.
Văn hóa ứng xử trong gia đình được người Việt đề cao và rất coi trọng. Trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam cho thấy có rất nhiều câu thể hiện điều này. Từ lúc mới sinh ra, con người đã được đặt trong sự gắn bó thiêng liêng của tình mẫu tử, phụ tử: “Phụ tử tình thâm”, “Xương cha, da mẹ”, “Cá chuối đắm đuối vì con”. Khi khôn lớn mỗi người không thể quên công ơn dưỡng dục của cha mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ, kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chữ “hiếu” luôn được đề cao trong quan hệ ứng xử với cha mẹ và được thể hiện bằng tục báo hiếu. Mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, con cái đối với cha mẹ đã được ông cha ta nâng lên thành đạo làm cha mẹ, đạo làm con. Từ mối quan hệ chủ đạo này đã hình thành nên đạo thờ ông bà tổ tiên, đạo thờ cha mẹ, góp phần nuôi dưỡng cho con người tình cảm “Uống nước nhớ nguồn”.
Trong quan hệ ứng xử, người xưa cũng đặc biệt coi trọng tình nghĩa giữa anh chị em trong một gia đình: “Anh em như chân, như tay. Như chim liền cánh, như cây liền cành”, “Em thuận, anh hòa là nhà có phúc” Mối liên hệ ruột thịt là mối liên hệ thiêng liêng không thể chia cắt: “Cắt dây bầu dây bí/ Chẳng ai cắt dây chị dây em”. Vì lẽ đó, ông cha ta cũng lên án nghiêm khắc những ai không giữ được tình cảm anh em: “Người dưng có nghĩa thì đãi người dưng/ Anh em vô nghĩa thì đừng anh em”
Đối với quan hệ vợ chồng, sự hoà thuận và tình nghĩa thuỷ chung luôn mang ý nghĩa thiêng liêng, sâu nặng, là mối ràng buộc trách nhiệm cao suốt đời người: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”, “Đốn cây ai nỡ dứt chồi/ Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương”
Những nét đẹp ứng xử trong gia đình đã hình thành nên nhiều giá trị văn hoá mang tính truyền thống của người Việt như: Sự hoà thuận, chung thuỷ, tình nghĩa, lòng yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ với cha mẹ, anh em. Nhiều gia đình Việt Nam xưa nhờ biết duy trì lối ứng xử có văn hoá đã tạo ra nền nếp, kỷ cương để mọi người cùng noi theo. Chính gia lễ, gia phong ấy là cái gốc của gia đình, giữ cho con người Việt Nam, gia đình và xã hội Việt Nam một sức sống mãnh liệt và sự trong sáng với cội nguồn. 
Thời nay, trong gia đình, dù văn hóa ứng xử có thay đổi rất nhiều so với ngày xưa, nhưng những khuôn phép của mỗi gia đình vẫn không thể thiếu được.
Giao tiếp, ứng xử trong nhà trường.
Trường học không chỉ là nơi rèn đức, rèn tài của người học sinh mà nó còn là nơi truyền bá những nét đẹp của văn hóa một cách khuôn mẫu và bài bản nhất. Trong môi trường này, mỗi học sinh phải lưu ý rõ về bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ với thầy cô, bạn bè và các mối quan hệ khác. Chính vì thế, đòi hỏi các nhà sư phạm cần phải dạy cho học sinh những điều mẫu mực nhất.
Với thầy cô, nhân viên :
Chào hỏi lễ phép khi gặp mặt. Không lẫn tránh hoặc tỏ thái độ dửng dưng:
Khi giao tiếp luôn giữ lễ, không vì quá gần gũi mà có những cử chỉ, lời nói vượt quá mối quan hệ thầy trò.
Luôn vâng lời dạy bảo, tuân theo sự hướng dẫn của thầy cô và nhân viên.
Khi lầm lỗi, được thầy cô chỉ bảo, hãy thành khẩn nhận lỗi và sửa chữa, điều chỉnh hành vi của mình, không vì thế mà đặt điều nói xấu sau lưng thầy cô.
Trường hợp bị oan, đến gặp thầy cô lễ phép giải bày không nên về báo phụ huynh đến đôi co làm mất đi mối quan hệ tốt đẹp giữa gia đình và nhà trường.
Khi thầy cô vào hay rời lớp, hãy đứng dậy trong tư thế nghiêm trang để chào. Cử chỉ miễn cưỡng đứng chào được xem là vô lễ.
	Với quan khách đến liên hệ với trường : 
Khách đến trường bao gồm các vị lãnh đạo trong ngành, trong chính quyền, đơn vị, đoàn thể, tổ chức có liên quan, các bậc phụ huynh hoặc nhân dân đến liên hệ công việc. Khi khách đến cần thể hiện sự tôn trọng, kính mến. 
Cụ thể :
Lễ phép chào hỏi khi gặp mặt. Chỉ dẫn nơi khách cần liên hệ với thái độ niềm nở, trân trọng.
Không nhìn soi mói hoặc bàn tán, cợt nhã.
Không đến gần phương tiện đi lại của khách để ngắm nghía, sờ soạng.
Khi khách vào thăm lớp hay liên hệ với thầy cô, hãy đứng dậy nghiêm trang chào. Hành động đó cũng đựơc thực hiện khi khách rời lớp.
Trong khi thầy cô trao đổi với khách ở ngoài lớp, hãy ngồi im lặng trong lớp chờ thầy cô vào. Việc gây ôn ào sẽ khiến khách đánh giá thấp về lớp và trường của mình.
	Với các anh chị lớp trên, bạn bè và các em lớp dưới :
*Với anh chị lớp trên :
- Cần thể hiện sự tôn trọng, xem như là anh chị trong gia đình, không được ỷ thân ỷ thế hỗn láo.
- Khi có chuyện bất bình, hãy đến trình bày với giám thị, thầy cố giải quyết, không tự ý gọi bạn bè, anh chị đến gây sự làm ảnh hưởng nền nếp của nhà trường.
*Với bạn bè cùng trang lứa và các em lớp dưới :
- Luôn ôn hoà, nhã nhặn, đoàn kết tương thân tương trợ khi có bất hoà hãy dùng lời nói để giải quyết, không dùng hành vi bạo lực khiến sự việc càng thêm mâu thuẫn.
- Cùng nhau chia sẻ, giải quyết những trở ngại trong cuộc sống, trong học tập.
- Tránh sự đố kị, đặt điều nói xấu nhau, chia bè kéo cánh, lập băng nhóm gây hiềm khích trong tập thể.
Một số hành động và lời nói thông dụng trong ứng xử :
* Với người trên hàng:
- Cúi đầu chào kết hợp với lời nói lễ phép:Thưa (...) tuỳ theo mối quan hệ và giới tính để xưng hô cho phù hợp. Nếu dùng từ “Chào” thì sau từ xưng hô phải có từ “ạ”
- Trường hợp bắt tay, phải để người trên hàng đưa tay trước. Khi bắt phải nắm tay chặt để thể hiện sự thân mật. Không nên chặt quá gây cảm giác đau cho người khác hoặc buông lỏng mang tính chiếu lệ tạo cảm tưởng hờ hững.
* Với nguời ngang hàng, dưới hàng:
- Có thể dùng lời thân thiện: Chào (bạn /em) hoặc mỉm cười, đưa tay chào, hoặc dùng những câu nói xã giao “ Bạn đi đâu đó, đang làm gì vậy, có khoẻ không”. 
- Có thể dùng cử chỉ vỗ vai nhẹ nhàng hoặc bắt tay để tạo sự thân mật. Trường hợp bắt tay với nữ giới hãy chờ họ đưa tay trước và tránh những lời nói suồng sã.
Nói lời xin lỗi và nhận lời xin lỗi:
* Trường hợp xin lỗi:
- Khi làm người khác khó chịu hoặc thiệt hại về vật chất hay tinh thần dù là nhỏ nhất, hãy mạnh dạn nói lời xin lỗi với thái độ hối tiếc.
 - Khi xin lỗi đừng cho đó là việc tự hạ mình, ngược lại hành động đó khiến cho người được xin lỗi không chỉ dễ chịu mà còn đánh giá mình là người có văn hóa.
* Nhận lời xin lỗi:
- Khi được người khác xin lỗi hãy vui vẻ trả lời: “không sao” hoặc “không có gì”. Nếu đối tượng có vai vế lớn hơn hãy thêm từ “ạ!”
- Tránh im lặng ra dấu cho qua hoặc quay người bỏ đi. Làm thế không giải toả được sự hối tiếc của người đã xin lỗi, có khi gây ra hiềm khích.
Yêu cầu được giúp đỡ và lời cảm ơn khi được giúp đỡ:
* Yêu cầu được giúp đỡ: Hãy nói với một thái độ nhã nhặn, thân thiện:
- “ Xin  vui lòng giúp đỡ”
- Bạn có thể giúp tôi .. được không?
- “ Xin lỗi, có thể cho tôi biết ”
* Sau khi được giúp đỡ: Hãy nói “ cám ơn” hoặc “cảm ơn nhiều” với một nụ cười tươi tắn và thái độ biết ơn.
* Đề nghị giúp đỡ người khác:
- Khi thấy có người xách nặng hoặc đang kéo xe lên dốc hay đang đau đớn, cần sự dìu dắt ta nên đến đề nghị được giúp đỡ họ. Trước khi thực hiện cần vui vẽ nói: “ Tôi có thể giúp  một tay được không ?” ,“ Tôi làm gì để có thể giúp ?” 
* Trả lời khi được cảm ơn:
-Khi được người khác bày tỏ sự cảm ơn nên đáp lại bằng thái độ vui vẻ, cởi mở cùng câu nói: “Không có gì”; nếu đối tượng trên hàng hãy thêm từ “ạ” ở cuối lời nói hoặc từ”dạ” ở trước câu nói.
- Khi có chuông báo, hãy nhấc ống nghe và bắt đầu bằng hai tiếng “A lô!” sau đó giới thiệu tên mình hoặc nhà mình và nhã nhặn hỏi người gọi cần trao đổi có việc gì? Nếu người gọi cần gặp một thành viên trong gia đình, hãy lịch sự bảo: “Xin  vui lòng chờ máy” và đi gọi người thân. Tránh nói cộc lốc “chờ máy” hoặc không trả lời mà gọi ngay người được gọi.
- Trường hợp người thân đi vắng, hãy thông báo với lời lễ phép, lịch sự, tránh những câu: “Không có nhà”, “đi rồi” và ngắt máy.
Từ các tiết học này tôi đã giáo dục đạo đức cho các em học sinh thông qua nội dung của bài học mà bộ tài liệu có đề cập đến cùng với các kiến thức thực tiễn gắn liền với các em trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ với tiết học thanh lịch – văn minh : Bài 2 : “ Giao tiếp, ứng xử trong gia đình” thông qua các hoạt động của tiết học tôi sẽ định hướng cho các em để các em thấy được công ơn to lớn và sự hi sinh của ông bà, cha mẹ những người thân thương gắn bó với các em.Từ đó các em sẽ biết trân trọng những điều mình đang có đồng thời có cách ứng xử sao cho phù hợp với những người thân trong gia đình.Các em còn thấy hạnh phúc khi nhận được sự quan tâm, chăm sóc của các thành viên trong gia đình, được sống với bố mẹ và có một mái nhà và biết quan tâm, chia sẻ đến mọi người nhiều hơn.
Sau đây, tôi xin minh họa quá trình giáo dục đạo đức cho các em học sinh thông qua nội dung của một tiết thanh lịch – văn minh mà tôi đã thực hiện tại lớp 7A7:
Tiết 3 – Bài 2
Giao tiếp, ứng xử trong gia đình (Tiết 1)
I. Mục tiêu cần đạt
Kiến thức
Nắm được những nét cơ bản về tổ chức gia đình của người Hà Nội (các thế hệ trong một gia đình, quan hệ họ hàng) 
Những mối quan hệ trong gia đình và cách giao tiếp, ứng xử trong gia đình (tiết 1: trong mối quan hệ với cha mẹ)
Kĩ năng 
Rèn luyện kĩ năng, hành vi giao tiếp ứng xử thanh lịch, văn minh đối với cha mẹ.
HS nhận thức phân biệt hành vi đúng, sai trong cách ứng xử. Từ đó, tự giác điều chỉnh, xây dựng hành vi đẹp; hình thành thói quen và lối sống đẹp.
Thái độ
Nuôi dưỡng những tình cảm đẹp: lòng yêu thương, kính trọng cha mẹ
HS thêm gắn kết và trân trọng gia đình của mình.
Định hướng phát triển năng lực
Năng lực hợp tác
Năng lực giải quyết vấn đề
Năng lực tư duy, sáng tạo
Năng lực cảm thụ, thẩm mĩ
Năng lực tự học
II. Chuẩn bị
Giáo viên
- Soạn giáo án, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh, tình huống 
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài 
 Học sinh 
- SGK,vở ghi, giấy màu, tư liệu 
- Chuẩn bị bài theo hướng dẫn của GV
III. Tiến trình dạy học
1. Ổn định tổ chức lớp
2. Kiểm tra bài cũ: Lồng ghép vào phần dạy bài mới.
3. Dạy bài mới
Tạo tâm thế cho HS trước giờ học 
GV: Cho HS lắng nghe một đoạn trong bài hát: “ Ba ngọn nến lung linh ”
GV yêu cầu HS nêu chủ đề của bài hát và bày tỏ cảm xúc khi nghe giai điệu.
 GV yêu cầu HS nêu khái niệm gia đình theo suy nghĩ và tình cảm của mình.
Giới thiệu bài mới:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1 : Hướng dẫn HS tìm hiểu về tổ chức gia đình của người Hà Nội 
Mục tiêu: Nắm được những nét cơ bản về tổ chức gia đình của người Hà N

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_giao_duc_dao_duc_cho_hoc_sinh_thong_qua_ti.docx