Báo cáo biện pháp Giảng dạy văn bản nhật dụng theo định hướng phát triển năng lực học sinh cấp THCS
Dự thảo Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2015 nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình theo định hướng năng lực. Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân, nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến thức và kĩ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực có các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có, đó là các năng lực chung cốt lõi. Yếu tố năng lực cốt lõi xuyên suốt mọi hoạt động cơ bản của con người. Định hướng xây dựng chương trình phát triển giáo dục sau 2015 đã xác định một số năng lực chung cốt lõi mà mọi học sinh (HS) Việt Nam đều cần có để thích ứng với nhu cầu phát triển xã hội. Các năng lực này liên quan đến nhiều môn học, theo đó, mỗi môn học, với đặc trưng và thế mạnh riêng của mình, sẽ tập trung hướng đến một số năng lực, để cùng với những môn học khác sẽ có mục tiêu hình thành và phát triển một số năng lực chung cốt lõi cần thiết đối với mỗi HS.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Giảng dạy văn bản nhật dụng theo định hướng phát triển năng lực học sinh cấp THCS
những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người học sinh trong bối cảnh mới. 1.4. Năng lực tự quản bản thân Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình. Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn luyện và phát triển ở HS năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, HS cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống. Bên cạnh những năng lực chung được nêu trên mà môn Ngữ văn ít nhiều có thế mạnh, trong những trường hợp nhất định của quá trình dạy học, những năng lực chung khác cũng cần được hướng tới. Chẳng hạn, năng lực sử dụng ICT trong môn học Ngữ văn thể hiện ở khả năng khai thác các nguồn thông tin mạng về những vấn đề của cuộc sống và trong tác phẩm văn học, những hình ảnh trực quan về các chi tiết nghệ thuật được miêu tả bằng ngôn ngữ văn học, Năng lực tính toán trong môn học Ngữ văn thể hiện ở khả năng đọc hiểu các văn bản có những con số (số liệu thống kê, bảng biểu), đưa ra các số liệu, bình luận về mối quan hệ giữa các số liệu để lập luận trong trình bày văn bản nói, viết; trong việc xác định cấu trúc ngôn ngữ, phân tích cách tổ chức văn bản, Bên cạnh đó, năng lực tự học thể hiện ở việc xác định được các nhiệm vụ học tập một cách tự giác, chủ động, biết mục tiêu của môn học và tự đặt ra được mục tiêu học tập cho cá nhân, hình thành phương pháp học cho cá nhân, biết điều chỉnh bản thân và chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ của bạn bè, người thân và các nguồn lực khác. Như vậy, trong dạy học các môn học cũng như dạy học Ngữ văn, quá trình thực hiện một nội dung học tập nhằm hình thành đồng thời nhiều năng lực, bởi thế cần vận dụng một cách hợp lí phương pháp và quy trình dạy học giúp HS thể hiện được các năng lực của cá nhân trong từng nội dung học tập. 1.5. Năng lực giao tiếp tiếng Việt Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe, nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời sống xã hội, trong từng bối cảnh/ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích. Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho HS năng lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, HS được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, HS được luyện tập những tình huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp. Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để HS được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt văn hóa, văn học. Đây cũng là mục tiêu chi phối trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo quan điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức tiếng Việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống. Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống. 1.6. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ (hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh; trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc được thể hiện ở những phương diện sau: - Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người, cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật. - Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm văn học: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,....từ đó cảm nhận được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua tác phẩm. - Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân; biết cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương. Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Với đặc trưng của môn học, môn Ngữ văn triển khai các mạch nội dung bao gồm các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn nhằm hướng dẫn HS đọc hiểu các văn bản và tạo lập được các văn bản theo các kiểu loại khác nhau. Trong quá trình hướng dẫn HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn giúp HS từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ năng nói và viết). Năng lực đọc – hiểu văn bản của HS thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức về tiếng Việt, về các loại hình văn bản và kĩ năng, phương pháp đọc, khả năng thu thập các thông tin, cảm thụ cái đẹp và các giá trị của tác phẩm văn chương nghệ thuật. Năng lực tạo lập văn bản của HS thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức về các kiểu văn bản, với ý thức và tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa cùng kĩ năng thực hành tạo lập văn bản theo các phương thức biểu đạt khác nhau, theo hình thức trình bày miệng hoặc viết. Thông qua các năng lực học tập của bộ môn để hướng tới các năng lực chung và các năng lực đặc thù của môn học như đã nêu trên. 2. Các kiểu văn bản và nội dung các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS 2.1. Các kiểu văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS Văn bản Nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hay kiểu văn bản. Nói đến văn bản Nhật dụng trước hết là nói đến tính chất nội dung của văn bản. Đó là những bài viết có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng xã hội hiện đại như: thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý... Văn bản Nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản. Hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK ngữ văn THCS tồn tại dưới nhiều kiểu văn bản khác nhau. + Văn bản thuyết minh VD: Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử, Ca Huế trên sông Hương, Động Phong Nha + Văn bản biểu cảm VD: Bức thư của thủ lĩnh da đỏ Mẹ tôi Cổng trường mở ra + Văn bản nghị luận VD: Đấu tranh cho một thế giới hoà bình Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em. + Văn bản là một bài báo thuyết minh khoa học VD: Thông tin về ngày trái đất năm 2000 Ôn dịch, thuốc lá Bài toán dân số + Văn bản văn học thuộc loại tự sự VD: Cuộc chia tay của những con búp bê 2.2. Các nội dung cơ bản của các văn bản Nhật dụng trong SGK Ngữ văn THCS Các văn bản nhật dụng được phân phối dạy học đều khắp ở các khối lớp, bình quân mỗi khối lớp được học đọc – hiểu từ 2 đến 3 văn bản. Ý nghĩa nội dung các văn bản này đều là những vấn đề gần gũi, quen thuộc, bức thiết đối với con người và cộng đồng xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển về tâm lý và nhận thức của học sinh, các vấn đề đựơc đề cập trong các văn bản Nhật dụng càng lên lớp cao càng phức tạp hơn. + Lớp 6, có ba văn bản mang đề tài nhật dụng là di tích lịch sử, quan hệ giữa thiên nhiên và con người, danh lam thắng cảnh. + Lớp 7 có ba văn bản với các nội dung về nhà trường, người mẹ, quyền trẻ em và văn hoá dân tộc; + Lớp 8 có ba văn bản về môi trường, tệ nạn xã hội và dân số; bảo vệ hoà bình chống chiến tranh, hội nhập với thế giới bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc + Lớp 9 có một văn bản nói về quyền sống của con người Từ các hình thức đó, những vấn đề thời sự cập nhật của cá nhân và cộng đồng hiện đại được khơi dậy, sẽ đánh thức và làm giàu tình cảm và ý thức công dân, cộng đồng trong mỗi người học giúp các em dễ hoà nhập hơn với cuộc sống xã hội mà chúng ta đang sống. II. Thực trạng dạy học văn bản nhật dụng Trong quá trình giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp, tôi nhận thấy một số thực trạng sau: GV coi các văn bản này là một thể loại cụ thể giống như truyện, kí...nên thường chú ý khai thác và bình giá trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh. Chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biện pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho các em. GV còn có tâm lý phân vân không biết có nên sử dụng phương pháp giảng bình khi dạy những văn bản này không và nếu có thì nên sử dụng ở mức độ như thế nào. Nhiều ý kiến cho rằng: “chất văn” trong văn bản nhật dụng không nhiều, nếu không chú ý dễ biến giờ Ngữ văn thành bài thuyết minh về một vấn đề lịch sử, sinh học hay pháp luật, dẫn đến hiệu quả các tiết dạy học các loại văn bản này chưa cao. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, đó là văn bản Nhật dụng mới được đưa vào giảng dạy, số lượng văn bản không nhiều nên GV còn thấy rất mới mẻ, ít có kinh nghiệm, lúng túng về phương pháp. GV chưa có kĩ năng sử dụng máy chiếu nên việc mở rộng kiến thức cho các em bằng hình ảnh rất hạn chế. Mặt khác chưa xác định đúng mục tiêu đặc thù của bài học văn bản Nhật dụng và chưa có ý thức sưu tầm tư liệu có liên quan đến văn bản như tranh ảnh, văn thơ để bổ sung cho bài học thêm phong phú dẫn đến giờ dạy tẻ nhạt, không thực sự thu hút sự chú ý của học sinh. III. Các biện pháp dạy học văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS 1. Dạy học đọc hiểu văn bản nhật dụng Ngoài mục tiêu gắn với nhu cầu, các vấn đề thực tiễn, dạy học các văn bản nhật dụng cũng giống như dạy các văn bản khác, mục tiêu là hướng tới việc hình thành và phát triến các năng lực đọc, viết tiếng Việt (năng lực tiếp nhận và xử lí thông tin, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực trình bày, tạo lập các kiểu loại văn bản cần thiết trong cuộc sống) cho học sinh. Dạy học đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Nếu như trước đây chúng ta coi phân tích tác phẩm hay giảng văn là một phương pháp đặc thù của dạy văn thì hiện nay đã có những thay đổi trong cách tiếp cận vấn đề này của chương trình và SGK Ngữ văn mới. Với văn bản nhật dụng, cách dạy đọc – hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho HS những cảm nhận của GV về văn bản được học, mà hướng đến việc cung cấp cho HS cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho HS năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc – hiểu của HS cần được thực hiện theo một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc – hiểu của HS cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mĩ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc - hiểu của học sinh trong việc học các văn bản nhật dụng còn được hiểu là sự tích hợp những kiến thức và kĩ năng của các phân môn cũng như toàn bộ kĩ năng và kinh nghiệm sống của học sinh. Mặt khác, các văn bản nhật dụng không chỉ nhằm giúp HS hình thành và phát triển năng lực đọc – hiểu với phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ, mà còn hướng dẫn HS cách đọc và tìm hiểu các văn bản nhật dụng với các phương tiện biểu đạt đa dạng, sử dụng nhiều yếu tố phi ngôn ngữ (sơ đồ, bản đồ, biểu bảng, hình ảnh,). Nội dung thông tin trong các văn bản nhật dụng hết sức phong phú, có liên quan đến nhiều lĩnh vực cuộc sống và nhiều môn học khác, do vậy, cần chú ý đến những vấn đề liên môn trong việc dạy đọc – hiểu, đồng thời cần giúp HS có phương pháp đọc, khả năng tự tìm kiếm nguồn thông tin đã dạng của cuộc sống để đáp ứng năng lực, sở thích của cá nhân. Đọc hiểu một văn bản nhật dụng bất kì, người đọc phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Tìm kiếm thông tin từ văn bản. - Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối thông tin để tạo nên hiểu biết chung về VB. - Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản. - Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn bản khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống. Để đạt được các nhiệm vụ trên, trong quá trình dạy học đọc hiểu văn bản nhật dụng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện các nội dung cơ bản sau: a) Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân - là những hiểu biết về chủ đề hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề của văn bản. b) Thể hiện những hiểu biết về văn bản: - Tìm kiếm thông tin: đọc lướt để tìm ý chính; đọc kĩ để tìm các chi tiết. - Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, phân tích, so sánh, kết nối, tổng hợp thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản: + Giải thích nghĩa và tác dụng của từ ngữ, hình ảnh, câu văn, chi tiết, biện pháp tu từ... trong VB. + Thu thập thông tin từ những yếu tố khác của văn bản như các bản đồ, biểu đồ, đồ thị (nếu có). + Chỉ ra được mối quan hệ giữa các thông tin trong văn bản. + Sắp xếp các chi tiết trong văn bản theo một trình tự nhất định (theo thứ tự thời gian hoặc không gian), phân loại các chi tiết được đưa ra. + Nắm được ý chính của các đoạn trong văn bản. + Phân tích các mô hình tổ chức trong văn bản: liệt kê/nêu trình tự các ý tưởng hay sự kiện, so sánh – đối lập, nguyên nhân – kết quả, các lí do/tổng hợp-kết luận, vấn đề-giải pháp. + Đưa ra những kết luận về văn bản từ các thông tin, quan điểm của người viết... - Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản: + Đánh giá các thông tin, các cảm xúc, suy nghĩ của người viết. + Nhận ra những khuynh hướng tư tưởng của người viết (ví dụ: qua những từ ngữ, ngôn ngữ văn học mà người viết sử dụng). + Làm rõ phong cách của người viết ở các khía cạnh: sử dụng ngôn từ (từ vựng, ngữ pháp), sử dụng các kĩ thuật viết/biện pháp nghệ thuật, cách thức và quan điểm khi đề cập đến một chủ đề hoặc đề tài nào đó. c) Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc hiểu vào việc đọc các loại văn bản khác nhau, sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu. + Đọc các văn bản khác (ngoài CT, SGK) có cùng đề tài/chủ đề hoặc hình thức thể hiện để củng cố những hiểu biết và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu. + Suy luận để bàn luận về những vấn đề trong cuộc sống có thể giải quyết bằng sự học hỏi từ nội dung của văn bản đã đọc hiểu. + Trình bày những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể (là một nhiệm vụ trong học tập, trong đời sống) từ việc vận dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu. Như vậy, việc dạy học đọc hiểu văn bản nhật dụng không chỉ rèn luyện cho HS năng lực đọc hiểu văn bản mà còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. Viết sáng tạo là khả năng trình bày, thể hiện những cảm nhận, suy nghĩ của cá nhân về đối tượng, vấn đề được đặt ra. Viết sáng tạo thể hiện ở cách quan sát và phát hiện những đặc điểm của đối tượng từ góc độ cá nhân, ở những suy nghĩ, cảm nhận riêng về đối tượng, ở cách diễn đạt, thể hiện mang sắc thái cá nhân, ở việc thể hiện những liên hệ, trải nghiệm riêng từ văn bản đến cuộc sống, ở việc trình bày ra những ý tưởng, giải pháp để giải quyết một tình huống thực tiễn Viết sáng tạo được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, với các mức độ khác nhau, do vậy cần tạo ra được những cơ hội để HS thể hiện ngay trong quá trình dạy học đọc hiểu để HS đồng thời phát triển các năng lực trong học tập. Dạy học tích hợp Để đáp ứng với yêu cầu dạy học Ngữ văn theo hướng hình thành và phát triển năng lực, trong dạy học các văn bản nhật dụng cần chú ý đến việc tổ chức dạy học theo hướng tích hợp. Dạy học theo hướng tích hợp giúp học sinh có thể huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, từ đó phát triển được những năng lực cần thiết. Tích hợp trong các bài giảng về văn bản nhật dụng rất phong phú. Đó là việc tổ chức các nội dung của các phân môn văn học, tiếng Việt, làm văn trong các bài học, giúp HS từng bước nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập các văn bản thuộc các kiểu loại và phương thức biểu đạt. Mặt khác, tính tích hợp trong việc dạy các văn bản nhật dụng còn thể hiện ở mối liên thông giữa kiến thức sách vở và kiến thức đời sống , liên thông giữa kiến thức, kĩ năng của môn Ngữ văn với các môn học thuộc ngành khoa học xã hội nhân văn và các ngành học khác, nhằm giúp HS có được kiến thức và kĩ năng thực hành toàn diện, góp phần giáo dục đạo đức công dân, kĩ năng sống, hiểu biết xã hội,... Ví dụ dạy bài: Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử giáoviên có thể tích hợp được nhiều kiến thức về lịch sử, địa lí, văn hóa, kiến trúc.... để bài học phong phú hơn. Còn dạy bài Ca Huế trên sông Hương giáo viên lại có thể tích hợp được kiến thức về âm nhạc, văn hóa, địa lí.... Như vậy, tích hợp trong văn bản nhật dụng không chỉ là phối hợp các kiến thức và kĩ năng của tiếng Vi
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_giang_day_van_ban_nhat_dung_theo_dinh_huon.doc