Báo cáo biện pháp Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7 bậc THCS

Bộ phận văn học nước ngoài nói chung và thơ Đường nói riêng ở trường THCS là một mảng khó dạy đối với giáo viên. Ở trường Đại học, việc giảng dạy được chuyên môn hoá cao độ, mỗi người chỉ tập trung nghiên cứu một bộ phận văn học: văn học nước ngoài, văn học Việt Nam, thậm chí là một giai đoạn của bộ phận văn học đó nên có điều kiện đi sâu nắm bắt được nội dung phương pháp giảng dạy.

Trong khi đó ở các trường THCS - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn thực hiện giảng dạy theo phân phối chương trình bao gồm cả văn học Việt Nam lẫn văn học nước ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường, vì vậy sẽ còn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại. Bên cạnh đó, chương trình Ngữ văn THCS trong những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân môn Văn học có nhiều bài khó, kiến thức mới mẻ nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ trong một tiết. Bởi vậy, để học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản theo chuẩn kiến thức - kĩ năng là một điều khó khăn.

 

doc 25 trang Chí Tường 20/08/2023 3220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7 bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7 bậc THCS

Báo cáo biện pháp Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7 bậc THCS
ường sử dụng đề tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử và cá nhân, đề tài về chiến tranh, đề tài về cuộc sống của những con người trong xã hội. Ngòi bút thi nhân đã lên sâu vào tất cả mọi nơi, xung phá và chốn cung đình u ám cũng như vào giữa quần chúng nhân dân. 
NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ TIẾP CẬN THƠ ĐƯỜNG
 Có một điều rất thú vị khi khảo sát các bài thơ Đường được đưa vào chương trình Ngữ văn 7- THCS hiện hành đó là trong số năm bài thơ được đưa vào chương trình thì có đến bốn bài là thể tuyệt cú- dù đây không phải là thể thơ tiêu biểu của Đường thi. Có thể người biên soạn đã quan tâm tới hứng thú tiếp nhận của học sinh phổ thông. Chúng thích những bài thơ ngắn mà lại kết tinh những giá trị độc đáo của thơ ca cổ. Vẫn khơi gợi được những rung cảm tinh tế, những khoảnh khắc thăng hoa của hồn người, vẫn thỏa mãn nhu cầu thưởng thức văn chương mà lại phù hợp với nhịp sống khẩn trương của thời hiện đại.
Trong thực tế giảng dạy và học tập, cả giáo viên và học sinh đều bị ám ảnh bởi “thơ Đường khó” đúng là có nguyên do của nó: Thơ Đường cách xa chúng ta cả về không gian, thời gian và tư duy nghệ thuật. Vả lại, tâm lí tuổi trẻ ngày nay rất nôn nóng khó có thể tĩnh tâm để cảm nhận được những rung động tế vi của tâm hồn như cảm xúc trước một ánh tà dương, một cánh hoa rơi chẳng hạn. Chưa kể đến rào cản về văn hóa, về sự trải nghiệm cuộc sống đủ cho tâm hồn có sự phong phú để cảm nhận sự hàm súc, tinh túy của thơ Đường. Tuy nhiên không phải không có cách để hiểu bài thơ. 
Tất nhiên để hiểu một bài thơ Đường có nhiều cách. Sau đây tôi xin đưa ra những căn cứ dựa trên các yếu tố hình thức của bài thơ. Tất cả các yếu tố hình thức của thơ Đường đều có khả năng tạo nghĩa: Nhan đề, từ, câu, cấu trúc, niêm, luật vần, đối... Ở đây, tôi chỉ hệ thống 5 căn cứ mà tôi cho là cơ bản và dễ tiếp nhận nhất với học sinh lớp 7. 
Nhan đề bài thơ: 
Nhan đề của bất cứ tác phẩm nào cũng quan trọng, nhan đề của một bài thơ Đường càng quan trọng. Nó thường là một gợi ý để xâm nhập vào thế giới nghệ thuật của bài thơ. Trong nhan đề “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương, chữ “ngẫu” cho thấy ông không hề có ý định làm thơ, nhưng rồi lại ngẫu nhiên cất bút. Nhưng đằng sau cái ngẫu nhiên ấy là một nguyên cớ tất yếu đó là tình quê trong ông lúc nào cũng căng như sợi dây đàn, chỉ chạm khẽ vào cũng đủ ngân nga, chính nó đã bật nảy tứ thơ khi gặp tình huống cảm xúc. Vì vậy chữ “ngẫu” càng làm tăng sức nặng của tình quê trong lòng tác giả. Nhan đề cho thấy bao tâm tình Hạ Tri Chương gửi hết cả vào việc hồi hương chứ không hề nhắc tới hơn 50 năm vinh hiển nơi kinh thành. Xu hướng tiếp cận bài thơ là khám phá trạng huống biểu hiện của tình quê hương.
Tuy nhiên không phải bất bài thơ nào nhan đề cũng có ý nghĩa.
2. Nghệ thuật đối: 
Trong bài thơ Đường làm theo luật, đối trở thành nguyên tắc bắt buộc, được quy định chặt chẽ, đòi hỏi phải có sự cân xứng cả thanh lẫn ý.
- Về thanh: các từ đối nhau phải cùng loại, danh từ đối với danh từ. Ví dụ tích nhân đối với thử địa; tính từ đối với tính từ, ví dụ lịch lịch đối với thê thê; tên riêng đối với tên riêng, ví dụ Hán Dương đối với Anh Vũ; số từ đối với số từ; hư từ đối với hư từ...
- Về ý: trong thơ đường luật, thanh đi đôi với ý nên khi tìm hiểu thanh thì phải luôn chú ý đến ý, khi được cả thanh với ý thì mới “đắt”. Nếu gặp trường hợp cần giữ ý thì phải hi sinh từ. Trường hợp này có thể phải đổi từ loại này với từ loại kia dẫn đến hiền tượng đối không chỉnh. Ví dụ trong bài Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu dùng động từ “khứ” đối với danh từ “lâu”. Theo nguyên tắc của luật đối, trong tác phẩm thơ luật thất ngôn bát cú thì hai liên giữa phải đối nhau. Đi vào thực tế sáng tác của các cá nhân ta thấy có nhà thơ sử dụng đối ở cả hai liên đầu liên cuối (Đăng cao – Đỗ Phủ). Vì thế, khi giảng dạy không nên chỉ dừng lại ở việc phát hiện cách khai thác luật đối theo quy định của thi nhân mà cần thiết phải lưu ý khai thác dụng ý nghệ thuật tạo điểm sáng trong sự phá cách, đồng thời định hướng cho học sinh vận dụng vốn hiểu biết tổng hợp để lý giải thấu đáo hình thức nghệ thuật mà tác giả sử dụng nhằm diễn tả đắc lực nội dung ý tứ của bài thơ.
Ví dụ khi phân tích luật đối trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Phi đã có cách lý giải khá sâu sắc: ở ngay hai câu thơ đầu mà thơ đã sử dụng hình thức đối thể hiện sự phá cách đầy dụng ý tái hiện thực trạng cái còn và cái mất. Dùng “hoàng hạc” (loài chim) để đối với “Hoàng Hạc” (tên lầu) là một sự phá cách nữa, song cho hai từ đó va chạm nhau như vậy mới làm nổi bật được mối quan hệ giữa cái còn và cái mất, tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối của nhà thơ. Theo thông lệ từ “khứ” không thể đối được với từ “lâu” song nhà thơ Thôi Hiệu vẫn cứ làm thế bởi vì diễn đạt cái đã đi xa mãi không bằng động từ mà diễn đạt được cái còn lại, trở lại không gì bằng danh từ.
Trong bài thơ tứ tuyệt có thể đối hoặc không đối, nếu có đối chúng ta chú ý hiện tượng tiểu đối làm cho bài thơ tuyệt cú có khả năng mở rộng bình diện miêu tả và thể hiện.
Từ (nhãn tự)
Không phải bài thơ nào cũng có nhãn tự, nhưng nếu có phải dành sự quan tâm thích đáng. Nhiều khi chỉ một từ làm bật lên cả thần thái của bài thơ. Nhiều bài không chỉ có một nhãn tự mà có một chuỗi các nhãn tự, cùng nhau nổi bật ý tình nhà thơ gửi gắm.
Câu
Kết cấu câu trong các bài thơ Đường thường lỏng lẻo nên sức gợi rất lớn. 
“Cử đầu khán minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương” 
(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
 	Cúi đầu nhớ cố hương)
Câu thơ không có chủ ngữ, không chỉ một đối tượng cụ thể nào nên từ cảm xúc rất riêng của Lí Bạch trở thành cảm xúc chung của bất cứ ai trong hoàn cảnh tha hương
Phần kết
Nói chung, bài luật thi là một cấu trúc chỉnh thể, một hệ thống tuần hoàn khép kín. Hệ thống đó được cấu trúc một cách có quy luật với những quan hệ nội tại chặt chẽ, đồng thời có mối liên hệ phong phú với thế giới bên ngoài tạo nên sự gợi ý sâu xa mà ta quen gọi là ý tại ngôn ngoại. Quan hệ nội tại của một bài luật thi được thể hiện ở niêm, luật, vần, đối, tiết điệu và bố cục. Đó là sự phối hợp có quy luật của thanh âm (bằng, trắc), ngắt nhịp (chẵn, lẻ), vần và không vần, đối và không đối. Sự vận hành của xu hướng trữ tình là đi từ xa đến gần, từ ngoại cảnh đến nội tâm, và khi trữ được tình rồi thì bài thơ kết thúc, đóng lại để mở ra những ý cảnh mới trong tâm trí người đọc. Do vậy, bài luật thi bao giờ cũng gieo nặng ý nghĩa ở phần kết. Phần kết tập trung chủ đề của bài thơ. Khi phân tích, khám phá, phần kết được coi như hạt nhân quy tụ để gợi liên tưởng của người đọc, đồng thời nó cũng như một tiền đề để hiểu các hình ảnh thơ trước đó. Cũng vì lẽ đó mà có người cho rằng làm một bài thơ Đường luật phải bắt đầu bằng câu cuối. Và người ta quan niệm một kêt hay thường là cái kết bỏ lửng hoặc bất ngờ.
Câu thơ kết trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế là một cái kết bất ngờ.
Phiên âm
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
 	Bài thơ 4 câu. Hai câu trước chỉ 14 chữ mà lột tả hết những gì cảm nhận được nơi xóm bến, cả nỗi “sầu miên” của lữ khách. Câu 3 như một “thoái triều” để câu 4 bất ngờ xuất hiện độc tôn một tiếng chuông. Nửa đêm tiếng chuông văng vẳng vọng đến thuyền khách. Tiếng chuông thong thả buông trong đêm tĩnh mịch, tiếng chuông chùa phổ độ chúng sinh tìm đến bầu bạn với người lữ khách cô đơn. Tiếng chuông phổ độ này đã đưa toàn bộ thế giới mông lung, tăm tối, hỗn độn trong hai câu trước đó sang “bỉ ngạn” (bờ kia), chỉ còn lại sự nhẹ nhõm giống như một sự đốn ngộ. Tác giả đã lại dùng động tả tĩnh, mượn âm thanh để truyền hình ảnh. Tiếng chuông chùa như một sinh thể sống đến để khai thông bế tắc, hoàn chỉnh thế giới nghệ thuật của bài thơ, nâng bài thơ lên một tầm cao. Mở ra một trường liên tưởng mới trong lòng người đọc về sự phổ độ của đạo Phật cho những khổ não và dục vọng của con người.
TIẾP CẬN TÁC PHẨM CỤ THỂ 
Bài HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ của Hạ Tri Chương
Nguyên tác: 
回 鄉 偶 書 
少小 離 家, 老大 迴 
鄕音 無 改, 鬢 毛摧 
儿童 相見, 不 相 識 
笑問客 從 何處 来 
Phiên âm:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Dịch nghĩa:
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Nhan đề: HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ
Hồi: trở về 
Hương: làng, quê hương
Ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên
Thư: ghi lại
Nhan đề bài thơ: Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê cho thấy nhà thơ không hề có ý định làm thơ khi đặt chân đến quê hương. Bài thơ ra đời từ một sự ngẫu nhiên, tình cờ. Nhưng đằng sau cái ngẫu nhiên ấy là cái tất nhiên của một tình yêu quê sâu nặng, thường trực, chỉ cần có duyên cớ là dâng trào bộc lộ.
Nghệ thuật đối
Phương thức biểu đạt chủ yếu của bài thơ là biểu cảm gián tiếp, thông qua tự sự và miêu tả. Bởi vậy, đọc từng câu từng chữ, tưởng như Hạ Tri Chương đang kể lại việc, đang tả lại cảnh một cách khách quan, vô tình. Nhưng qua một hệ thống đối cân chỉnh được sử dụng, người đọc lại khám phá được một khối tình u uẩn, tràn đầy phía sau.
Câu thơ đầu đối cân chỉnh giữa 2 vế câu cả về từ loại và ý nghĩa: 
Câu thơ
Thiếu tiểu 
 li gia 
 >< 
 lão đại 
 hồi
Ý nghĩa
Trẻ nhỏ
 đi
 già lớn
 về
Từ loại
Danh từ
Động từ
Danh từ
Động từ
 Câu thơ 7 chữ nhắc tới hai mốc trong cuộc đời nhân vật trữ tình: thiếu tiểu - lão đại (tuổi trẻ - tuổi già); tạo dựng hai sự đối lập: li – hồi (đi, xa nhà – về, trở về nhà). Thoạt nhìn thì câu từ đơn giản, lời lẽ kể tự nhiên nhưng cấu trúc đó đã ngầm ẩn một sự sắp xếp. Nó khái quát cuộc đời của cả một con người. Câu thơ giản dị như vô tâm nhưng hàm chứa cái nhìn chiêm nghiệm cả một quãng đường từ thiếu tiểu li gia đến lão đại hồi. Con người ấy tuổi trẻ tang bồng hồ thỉ trả hết nợ công danh, già mới bước chân trở về quê cũ. Vui đấy nhưng cũng ngậm ngùi biết bao!
Câu thứ hai tiếp tục tạo lập các ý đối, cân chỉnh và về hình thức và ý nghĩa thơ:
Câu thơ
Hương âm 
 vô cải 
>< 
 mấn mao 
 tồi
Ý nghĩa
Giọng quê
 không đổi
 tóc mai
 thay đổi
Từ loại
Danh từ
Động từ
Danh từ
Động từ
Mối quan hệ giữa một cái đổi - một cái không đổi, cái bất biến - cái vạn biến, linh hồn - thể xác, cái có thể kiểm soát - cái không thể kiểm soát toát lên điều cảm động: mặc cho bể dâu thế sự, mặc cho sự nghiệt ngã của thời gian làm rụng tóc mai ta vẫn là đứa con của quê hương, bao tâm tình thương mến và cả tâm hồn vẫn dành trọn cho quê. “Giäng quª kh«ng ®æi” lµ biÓu hiÖn c¶m ®éng vÒ tÊm lßng son s¾t, thñy chung víi quª hư¬ng. Qua ®ã, câu thơ thÓ hiÖn t×nh yªu quª s©u nÆng cña t¸c gi¶. Câu từ dường như ấp ủ một nỗi vui mừng nhưng cũng đầy hồi hộp, bồi hồi: tình quê vẫn vẹn nguyên, ta nhớ quê hương nhiều lắm. Liệu quê hương còn nhớ ta chăng? 
Câu thơ thứ ba không còn đối ý giữa hai vế câu mà sử dụng đối lập giữa cái có và cái không, giữa cái nhìn ở bề ngoài (kiến) và sự thức tỉnh, ngộ ra ở bên trong (thức):
Câu thơ
Nhi đồng 
 tương kiến 
 bất tương thức 
Ý nghĩa
 ><
 Nhi đồng tương kiến - nửa đầu câu thơ báo hiệu sự vui mừng, náo nức. Sau hơn 50 năm trở về, người gặp đầu tiên là lũ trẻ, vui lắm vì trẻ thơ trong suốt, hồn nhiên . Nhưng bất tương thức - nửa sau câu thơ lại đem đến sự hụt hẫng. Cụ già thì háo hức, mừng vui, vồ vập nhưng lũ trẻ thì không quen biết. Thật mừng vui đấy nhưng tủi lòng biết bao!
Ở câu thơ cuối, nghệ thuật đối không trực tiếp thể hiện trên câu chữ như ba câu thơ đầu mà lặn ngụp trong ý nghĩa, sâu xa từ mạch tâm tư, tình cảm của nhà thơ:
	Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
	Mối quan hệ đối lập được tạo dựng ở đây là sự đối lập giữa mong ước của người trở về với thực tế hiện hữu. Người về với bao hồi hộp, vồ vập nhớ thương, bao hình dung trông đợi những cảnh tình thân thiết. Nhưng va đập đầu tiên của nhà thơ sau bao háo hức là câu hỏi trong trẻo mà đầy xa lạ của lũ trẻ: Khách tòng hà xứ lai? Một chữ “khách” đã biến người về thành kẻ bơ vơ. Sau tiếng cười, hồn nhiên ấy ta thấy ẩn giấu nỗi buồn thấm thía của cụ già. Ta xa quê lâu quá, giờ trở thành khách lạ trên chính quê hương. Lấy tiếng cười của lũ trẻ diễn tả tiếng khóc nghẹn lòng của người xa xứ hồi hương.
Câu kết 
	Suốt cả ba câu mạch thơ đi nhanh lấp đầy tâm trạng buồn vui lẫn lộn, tủi tủi mừng mừng, náo nức hồi hộp của một người mà cái khao khát hồi hương ấp ủ suốt một đời người giờ được trở về quê. Đến câu cuối nhịp thơ sững lại như phanh gấp. Cái háo hức, bồi hồi tan biến chỉ còn sự buồn tủi đến nghẹn lời. Câu thơ cuối ngừng lại bỏ lửng một khoảng trống đầy ám ảnh như khoảng lưu bạch trong bức tranh thủy mặc gợi nhều suy ngẫm, liên tưởng.
Cái háo hức bồi hồi, mừng mừng tủi tủi trước đó hay cái đắng lòng ngậm ngùi sau này tựu chung lại cũng là biểu hiện của tình quê tha thiết. Vì vậy mà sách giáo khoa Ngữ văn 7, trong mục ghi nhớ, viết: Bài thơ biểu hiện một cách chân thực mà sâu sắc , hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ. 
Nhưng kết nối những điều vừa khám phá ta còn có những liên tưởng khác. Tình quê không đổi, nhưng con người thì khác rồi. Nhà thơ bắt đầu cảm nhận được quy luật cuộc đời: vạn vật luôn biến dịch trước sự vần xoay của đất trời. Quê hương mà ngày đêm ta ấp ủ niềm vui ngày trở về, quê hương mà lúc nào nơi đất khách ta cũng canh cánh nỗi nhớ giờ đây thành xa lạ. Người trở về bỗng lạc lõng ngay trên chính quê mình. Ta nghĩ đến sự đồng cảm, đồng điệu của bài thơ này với một bài thơ khác của Chế Lan Viên:
Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồi
Bạn chơi ngày nhỏ chẳng còn ai
Nền nhà nay dựng cơ quan mới
Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người.
 Tại sao lại có cảnh huống chua chát đó? Có lẽ để xảy ra cảnh ngộ này là vì từ lâu lắm rồi, từ cái buổi “li gia” thi nhân đã không một lần trở về quê hương, ta xa quê lâu quá mà theo lẽ thường thì: Năng mưa thì giếng năng đầy/ Anh năng đi lại me thầy năng thương (ca dao). Phải chăng đây là lời tạ lỗi của đứa con với người mẹ quê hương?
Bài VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ của LÝ BẠCH
Nguyên tác
望庐山瀑布 
日照香炉生紫烟,
遥看瀑布挂前川。 
飞流直下三千尺,
疑是银河落九天。
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh ngàn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
Dịch thơ
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Nhan đề: VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ
Vọng: trông từ xa
Lư Sơn: núi Lư - tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc
bộc: nước trên núi chảy xuống
bố: vải
Nhan đề bài thơ ngắn gọn trong 5 chữ nhưng gói ghém được cả cái thần lớn lao của bài thơ. Vọng cho người đọc biết vị trí quan sát của tác giả: đứng từ xa nhìn lại. Vị thế ấy không giúp nhà thơ nêu rõ được đặc điểm chi tiết nhưng lại có ưu thế hỗ trợ việc miêu tả cảnh một cách bao quát, tô đậm được vẻ hùng vĩ và hoành tráng của cảnh vật. Bộc, bố nếu đứng tách riêng không để lại ấn tượng ngữ nghĩa gì nhiều. Khi xếp cạnh nhau, chúng mang một ý tình sâu đậm, gợi mở ấn tượng đầu tiên về cảnh Lư Sơn: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn xa như một tấm vải treo dọc, buông rủ xuống. Cảnh vật Lư Sơn từ nhan đề là tĩnh tại nhưng báo hiệu những điều bất tĩnh, bất tại ở phía sau.
Nghệ thuật đối
Nhìn trực diện, Lí Bạch không để câu từ đối nhau chan chát. Nghệ thuật đối ngầm ẩn trong mạch thơ và giữa 3 câu đầu đối với câu kết. Ở 3 câu đầu, Lí Bạch đã khéo léo tô vẽ bức tranh thác nước Lư Sơn bằng những nét họa mạnh mẽ, dứt khoát. Cảnh “lò hương” đặc trưng của ngọn núi hiện ra trước mắt người đọc: làn hơi nước phản quang ánh sáng mặt trời chuyển thành màu tím vừa rực rỡ vừa kỳ ảo. Ở câu thơ thứ hai, dòng nước tuôn trào đổ ầm ầm, dưới con mắt lặng ngắm từ xa của Lí Bạch, chợt biến thành dải lụa trắng rủ xuống, yên ắng, bất động treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông. Cái động của thực tế đi vào trong thơ thành cái tĩnh bằng tài biến hóa ngôn từ của bậc tiên thi Lí Bạch. Câu thơ thứ 3 đột ngột hóa tĩnh thành động. Dòng lụa thiên nhiên bỗng chốc ầm ầm bay xuống 3000 thước. Câu thơ nhắm trúng nhiều đích tả và gợi: thác nước hùng vĩ, núi cao, sườn dốc dựng đứng. Đó là cảnh tráng lệ thực của thác và núi nước Lư Sơn. Câu thơ cuối đưa người đọc vào cảnh huyền ảo của cảnh vật. Hai chữ nghi thị diễn tả rất đạt điều đó. Vẻ đẹp như sông Ngân rơi xuống trần gian góp phần hoàn chỉnh bức họa Lư Sơn.
Nhãn tự
Mỗi câu thơ của “Vọng Lư Sơn bộc bố” lại có một nhãn tự riêng: sinh, quải, phi lưu, lạc. Ngọn núi Hương Lô nổi bật bởi “khí bao trùm trên đỉnh Hương Lô mịt mù như hương khói” (lời nhận xét của nhà sư Tuệ Viễn trong Lư sơn kí) Cái mới của Lí Bạch là miêu tả Hương Lô mịt mù sương khói dưới những tia nắng mặt trời. Với động từ sinh, dường như chỉ khi ánh sáng mặt trời xuất hiện, mọi vật mới được sinh sôi nảy nở, sống động hơn bao giờ hết. Trong chuỗi biến hóa tĩnh – động, động – tĩnh ở câu thơ thứ 2 và 3, động từ quải, phi lưu, trực há đã làm tròn nhiệm vụ được giao. Quải (treo) biểu hiện vô cùng sát hợp cảm nhận nhìn từ xa về dòng thác: ở khoảng giữa, thác nước như dải lụa treo cao, mềm mại và uyển chuyển. Nếu động từ quải ở câu thơ thứ 2 giống như chiếc máy ảnh nhanh tay chụp lại khoảnh khắc tĩnh tại thần thái của thác nước thì ở câu thơ thứ 3, hai chữ phi (như bay) và trực (thẳng đứng) lại tài tình hóa tĩnh thành động. Núi thấp, sườn thoai thoải thì thác nước không thể nào “phi lưu” và “trực há” được. Sự tráng lệ của bức họa thiên nhiên được gợi lên từ các nhãn tự ấy, ta từng gặp ở những câu thơ trong “Tảo phát Bạch Đế thành”:
“Triêu từ Bạch đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san”
(Sáng từ Bạch đế giữa ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng trọn một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu không dứt
Ngàn non thuyền nhẹ đã qua ngay)
Ở câu thơ cuối, chữ lạc (rơi xuống) được dùng rất đắc địa vì dòng Ngân Hà vốn nằm theo chiều ngang vắt qua bầu trời, còn dòng thác núi Lư lại đổ theo chiều thẳng đứng. Những nét vẽ thiên nhiên phóng túng, những câu từ “cam dư chi vị” đọng lại biết bao nhiêu ấn tượng!
Câu kết
Như đã phân tích, câu thơ kết đối với cả 3 câu thơ trên. Cảnh được so sánh có phần phóng đại nhưng đặt trong văn cảnh, người đọc vẫn cảm nhận được sự chân thật, tự nhiên. Câu cuối này quả thực là một danh cú bởi đã kết hợp được một cách tài tình cái ảo và cái chân, cái hình và cái thần: Hương Lô có mây mù bao phủ nên ở xa trông thác nước đã được hình dung như một dải lụa treo lơ lửng. Đám mây mù và dải lụa bạch ấy dễ khiến người đọc liên tưởng đến dải Ngân Hà. Mà Ngân Hà, trong truyền thuyết Trung Hoa, cũng được coi như một dòng sông thật sự. Bên cạnh đó, câu thơ đã lột tả được một cảm giác kì diệu của nhà thơ do hình ảnh thác nước gợi lên và để lại những dư vị đậm đà trong lòng người đọc. Khép bài thơ lại, vẫn âm vang những dư ba đầy ý vị của dòng sông Ngân trong Vọng Lư Sơn bộc bố.
Bài TĨNH DẠ TỨ của LÝ BẠCH
Nguyên tác
靜夜思
床前明月光, 
疑是地上霜。 
舉頭望明月, 
低頭思故鄉。
Phiên âm
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Ánh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Nhan đề: TĨNH DẠ TỨ
Tĩnh: im lặng, yên tĩnh
Dạ: đêm
Tứ: ý tứ, cảm nghĩ
Tên bài thơ sáng tỏ rằng 20 con chữ ấy không chủ tâm tả cảnh mà chuyển tải đi những cảm, nghĩ của nhà thơ. Đêm yên tĩnh gợi những ý tứ, xúc cảm.
Nghệ thuật đối
Ở 

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_doi_moi_cach_tiep_can_tho_duong_trong_chuo.doc