Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3

Hệ thần kinh của con người được cấu tạo từ những đơn vị cấu trúc và chức năng cơ bản là các tế bào thần kinh hay nơron. Nhờ khả năng tiếp nhận, xử lí và chuyển giao thông tin vô cùng phức tạp của nơron mà cơ thể có được những phản ứng thích hợp với các kích thích tác động vào cơ thể. Cho tới lúc ra đời, não bộ của đứa trẻ vẫn chưa được phát triển đầy đủ, mặc dù có cấu tạo và hình thái không khác với não của người lớn là mấy. Có những sự biến đổi về tế bào học và về chức năng rất tinh vi trong tất cả các giai đoạn phát triển. Sự phát triển của các đường dẫn truyền diễn ra rất mạnh mẽ, tăng lên theo tuổi và được tiếp tục đến 14 – 15 tuổi, do đó cấu tạo tế bào của vỏ não trẻ em 7 tuổi về cơ bản giống với người lớn. Khoảng giữa 7 – 14 tuổi, các rãnh và hồi não đã có hình dáng giống của người lớn. Hoạt động thần kinh cấp cao của học sinh tiểu học phát triển cùng với sự trưởng thành về hình thái của não bộ. Những năm đầu tiên của trẻ là giai đoạn phát triển đặc biệt mạnh mẽ của hoạt động thần kinh cao cấp. Cũng trong giai đoạn đó, các cơ quan cảm giác và các phần vỏ não của cơ quan phân tích được phát triển. Hệ vận động được phát triển với nhịp độ nhanh. Cuối cùng, hệ thống tín hiệu thứ hai – ngôn ngữ của trẻ – bắt đầu phát triển. Từ 6 tuổi trở đi, trẻ bắt đầu sử dụng các khái niệm được trừu xuất khỏi hành động. Ở tuổi này, trẻ bắt đầu học viết và học đọc được. Sang 7 tuổi, thùy trán của não bộ đã trưởng thành về hình thái và trong thời kì này xuất hiện khả năng duy trì chương trình hành động gồm một vài động tác và khả năng dự kiến trước được kết quả của hành động. Những thành tựu nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy não bộ không tư duy theo dạng tuyến tính mà bằng cách tạo ra những kết nối, những nhánh thần kinh. Việc ghi chép tuần tự theo lối truyền thống với bút và giấy có dòng kẻ đã khiến cho con người cảm thấy nhàm chán. Từ trước đến nay, đã có một số quan điểm cho rằng, con người không sử dụng hết 100% công suất của bộ não, thậm chí có ý kiến cho rằng: Trong cuộc đời, mỗi người chỉ sử dụng 10% các tế bào não, 90% tế bào còn lại ở trạng thái ngủ yên vĩnh viễn. Những nghiên cứu bằng ảnh cộng hưởng từ chức năng cho thấy, toàn bộ não hoạt động một cách đồng bộ trong các hoạt động tinh thần của con người và quá trình tư duy là sự kết hợp phức tạp giữa ngôn ngữ, hình ảnh, khung cảnh, màu sắc, âm thanh và giai điệu. Tức là quá trình tư duy đã sử dụng toàn bộ các phần khác nhau trên bộ não.

doc 30 trang Chí Tường 20/08/2023 5624
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3
niệm, nội dung vấn đề liên quan luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra được một “bức tranh tổng thể” mô tả về khái niệm, nội dung chủ đề chính được gắn kết với các nội dung tiểu chủ đề liên quan. Nội dung, chủ đề chính đóng vai trò là điểm hội tụ của những mối liên hệ với các nội dung tiểu chủ đề liên quan khác. Kết cấu này là tạm thời và hữu cơ, cho phép có thể thêm và điều chỉnh chi tiết. Bản chất mở của quá trình này khuyến khích tạo nên mối liên hệ giữa các ý tưởng.
	Một Bản đồ tư duy có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy (với các loại bút màu khác nhau nếu có). Tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng phần mềm để tạo ra Bản đồ tư duy.
Một số lưu ý khi vận dụng Bản đồ tư duy trong dạy học
	Trong quá trình sử dụng PPDH bằng Bản đồ tư duy cần phải lưu ý một số vấn đề như: Học sinh cần được giới thiệu nhiều cách tổ chức thông tin dưới dạng sơ đồ tư duy: sơ đồ thứ bậc, sơ đồ mạng, sơ đồ chuỗi, sơ đồ quan hệ toàn bộ một phần Giáo viên được ra các câu hỏi để gợi ý học sinh lập sơ đồ (thấy được quan hệ giữa các từ khóa với các từ khóa thứ cấp hay chủ đề chính với các chủ đề nhỏ). Giáo viên nên khuyến khích học sinh phát triển, sắp xếp ý tưởng để hoàn thành sơ đồ. Cũng cần lưu ý rằng không có cách nào là tốt nhất hoặc thích hợp nhất với tất cả mọi đối tượng. Một số học sinh thích sắp theo hàng, một số khác thích dạng hình học, lại có người thích sắp xếp một cách tự do hơn. Điều này liên quan rất nhiều đến cách học của cá nhân cũng như kinh nghiệm của người học.
	Ví dụ:
	Thay vì tổ chức cho học sinh ôn tập theo cách truyền thống, giáo viên có thể triển khai các nội dung cần ôn tập bằng cách sử dụng Bản đồ tư duy, tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội sử dụng kiến thức đã học vận dụng chúng vào thực tế dưới dạng một phương án sử dụng Bản đồ tư duy khi ôn tập chương “Con người và sức khỏe” (Tự nhiên và Xã hội lớp 3. Giáo viên có thể nêu một câu hỏi khái quát: “Hãy sử dụng Bản đồ tư duy để tìm hiểu các vấn đề liên quan đến sức khỏe con người”, học sinh suy nghĩ về câu hỏi trên và đưa ra câu trả lời cho câu hỏi chính (vẽ Bản đồ tư duy với từ khóa trung tâm là Con người và Sức khỏe). Lần lượt bổ sung từ ngữ, ý tưởng vào câu trả lời cho câu hỏi chính xác. Học sinh đưa ra các vấn đề liên quan đến Con người và Sức khỏe như: Cơ thể con người có những cơ quan nào? (hô hấp, tuần hoàn, bài tiết nước tiểu và thần kinh), học sinh đọc ý kiến của các thành viên trong nhóm và thống nhất. Đó là các từ khóa cấp 1. Từ từ khóa cấp 1, giáo viên có thể sử dụng 5W1H (câu hỏi): Là gì? (What); Khi nào? (When); Ai? (Who); Ở đâu? (Where); Vì sao? (Why); Như thế nào? (How) để yêu cầu học sinh đưa ra các vấn đề liên quan đến các từ khóa cấp 2. Học sinh thảo luận về các câu trả lời khác nhau và đánh dấu những đặc điểm chính yếu (gạch chân hoặc dùng màu khác nhau). Ví dụ: với câu hỏi: Nên làm gì để bảo vệ và giữ gìn vệ sinh cơ quan hô hấp?..., học sinh sẽ phát triển sơ đồ và điền các từ khóa: vệ sinh mũi, họng; giữ vệ sinh nhà ở; Hay như câu hỏi: Làm thế nào để phòng bệnh hô hấp?... học sinh có thể điền tiếp vào các lược đồ từ khóa như: giữ ấm cơ thể, ăn uống đủ chất, luyện tập thể dục, đó chính là các từ khóa cấp 2. Cứ như vậy, Bản đồ tư duy sẽ được học sinh bổ sung và hoàn chỉnh dần.
	Một số ví dụ khác cho thấy việc sử dụng Bản đồ tư duy một cách dễ dàng và hiệu quả trong dạy và học nhiều môn khác nhau như Lịch sử, Địa lí, Tiếng Việt,
	Để tóm tắt kiến thức về Giữ gìn vệ sinh cho học sinh, giáo viên có thể sử dụng Bản đồ tư duy với từ khóa trung tâm là GIỮ VỆ SINH. Xung quanh từ khóa này là các từ khóa cấp 1: ăn sạch, uống sạch, giữ vệ sinh cơ thể, Sau đó đề nghị các em tiếp tục điền thêm các từ khóa cấp độ nhỏ hơn.
	Để dạy về các loại cây thường được dùng trong đời sống hàng ngày, giáo viên có thể đưa ra từ khóa TRÁI CÂY, sau đó đề nghị các em nêu ra các loại trái cây mà các em biết. Kế tiếp mời một số nhóm khác lên triển khai các ý tưởng xung quanh một trái cây đã được nêu tên về các mặt: hình dạng quả, cấu tạo, thời điểm xuất hiện trong năm,
	Khi dạy bài tập đọc Cuốn sổ tay, giáo viên cùng học sinh tìm hiểu nội dung bài học bằng cách xây dựng Bản đồ tư duy với từ khóa là CUỐN SỔ TAY. Khi hoàn thành lược đồ giáo viên giới thiệu với học sinh rằng đây cũng là một cách ghi chép sổ tay.
	Tóm lại: Bản đồ tư duy có thể sử dụng trong các bài học, môn học với các cấp học, với các mức độ và nội dung khác nhau. Để đảm bảo Bản đồ tư duy phát huy được tác dụng giúp cho học sinh phát triển tư duy ghi nhớ kiến thức một cách cụ thể, chính xác theo cấu trúc trật tự logic của vấn đề, nội dung, chủ đề, giáo viên cần chuẩn bị nội dung và hệ thống các câu hỏi khơi gợi để học sinh động não phát triển, bổ sung ý kiến. Trong quá trình phát triển ý tưởng, các ý tưởng của học sinh đều được tôn trọng và ghi nhận, sau đó giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, học sinh là chủ thể hoạt động, tìm kiếm và phát triển kiến thức mới trên có cơ sở kiến thức và kinh nghiệm đã có của mỗi học sinh. Giáo viên không nên xây dựng bản đồ rồi giảng dạy để học sinh công nhận, điều này mang tính hình thức áp đặt không hiệu quả. Vấn đề cốt lõi ở kĩ thuật này là giáo viên chỉ nêu chủ đề, nội dung chính rồi tổ chức để học sinh tự tìm kiếm, phát hiện các kiến thức, nội dung, vấn đề liên quan. Người học thật sự là chủ thể hoạt động. Một vấn đề nữa cũng cần lưu ý đó là: không có PPDH nào là tối ưu nên trong mỗi bài học giáo viên cần vận dụng phối hợp linh hoạt các PPDH nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho dạy học.
	d. Chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3
	Về kiến thức: HS có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về:
	- Con người và sức khỏe: tên, chức năng và giữ vệ sinh cơ quan hô hấp, tuần hoàn, bài tiết nước tiểu và thần kinh. Biết tên và cách phòng tránh một số bệnh thường gặp ở cơ quan hô hấp, tuần hoàn và bài tiết nước tiểu.
	- Xã hội: mối quan hệ họ hàng nội ngoại; một số hoạt động chủ yếu ở trường; biết một số cơ sở hành chính, văn hóa, y tế, giáo dục và một số hoạt động thông tin liên lạc, nông nghiệp, thương nghiệp ở nơi HS đang sống
	- Tự nhiên: biết được sự đa dạng, phong phú của thực vật, động vật; chức năng của rễ, thân, lá, hoa, quả đối với đời sống của cây và ích lợi đối với con người; biết vai trò của Mặt trời đối với Trái đất và đời sống con người, vị trí và sự chuyển động của Trái đất trong Hệ mặt trời; sự chuyển động của Mặt trăng quanh Trái đất; hình dạng, đặc điểm của Trái đất; biết hiện tượng ngày, đêm, các tháng, mùa trong năm.
	Về kĩ năng: bước đầu hình thành và phát triển cho HS các kĩ năng:
	- Ứng xử thích hợp trong các tình huống liên quan đến vấn đề sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng; viết vệ sinh và phòng chống bệnh tật )bệnh lao phổi, tim mạch, )
	- Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập; biết diễn đạt những hiểu biết bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,
	- Phân tích, so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.
	Về thái độ: hình thành và phát triển ở HS thái độ:
	- Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cả cộng đồng.
	- Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng kiến thức đã học vào đời sống.
	- Yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp, có ý thức bảo vệ môi trường xung quanh.
	* Nội dung môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3: Nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3 gồm 3 chủ đề lớn: Con người và sức khỏe; Xã hội; Tự nhiên.
Cơ sở thực tiễn
Qua điều tra cho thấy, PPDH được sử dụng thường xuyên nhất ở tiểu học là phương pháp thuyết trình, đàm thoại và quan sát. Sau thuyết trình và đàm thoại, thảo luận nhóm cũng được nhiều giáo viên lựa chọn. Xếp theo thứ tự giảm dần về mức độ sử dụng thì tiếp theo là đến nhóm các phương pháp trò chơi học tập, thí nghiệm, nêu vấn đề. Cuối cùng là nhóm các phương pháp động não, bàn tay nặn bột và Bản đồ tư duy chỉ thỉnh thoảng sử dụng.
PPDH bằng Bản đồ tư duy được xem là một trong những PPDH tích cực, song điều tra cho thấy mức độ sử dụng của giáo viên còn rất hạn chế, thỉnh thoảng thậm chí hiếm khi sử dụng. Bên cạnh đó, nhiều giáo viên đã nhận thức được tác dụng của PPDH bằng Bản đồ tư duy nhưng việc sử dụng phương pháp này trong dạy học vẫn còn rất hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu được đưa ra chủ yếu ở đây là do bị hạn chế về thời gian của tiết học, điều kiện cơ sở vật chất. Hơn nữa, với trình độ học sinh hiện tại sẽ gặp khó khăn trong quá trình ghi chép đặc biệt là với đối tượng học sinh yếu. Tương tự như PPDH bằng Bản đồ tư duy, điều tra thấy các PPDH mới như động não, bàn tay nặn bột cũng ít khi được sử dụng.
Hiện nay, khi lên lớp, nội dung các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thường được giáo viên chuẩn bị và tiến hành theo đúng gợi ý trong SGV. Khi rút ra những thông tin qua nội dung bài học, giáo viên ít suy nghĩ xem những thông tin đó các em có thể áp dụng chúng như thế nào trong cuộc sống hàng ngày và kết quả học sinh áp dụng như thế nào.
Nhiều giáo viên đã phối hợp sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học theo hướng tích cực vào trong giờ dạy của mình như: trò chơi học tập, hoạt động nhóm. Tuy nhiên, một số giáo viên còn có những hạn chế khi vận dụng phối hợp những hình thức dạy học. Hầu hết các tiết dạy của giáo viên đều chia nhóm hoạt động song hoạt động nhóm của học sinh trong các giờ học thường mang tính hình thức và chưa đạt được hiệu quả học tập. Giáo viên có sử dụng hoạt động nhóm trong dạy học Tự nhiên và Xã hội nhưng giáo viên chưa khai thác được hết ưu điểm của PPDH này do cách tổ chức hoạt động nhóm còn chưa hợp lí, cách phân công nhiệm vụ chưa phù hợp dẫn tới hiệu của sử dụng chưa cao.
Quan tâm đến hứng thú của học sinh, trong một số giờ dạy, giáo viên đã đưa trò chơi vào nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh tuy nhiên hiệu quả không cao. Nhiều khi sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên phải mất nhiều thời gian để ổn định trật tự lớp để tiếp tục giờ học, nhiều học sinh thờ ơ không quan tâm.
Giáo viên ít đầu tư nghiên cứu nội dung bài học để thu hút học sinh tích cực học tập, mở rộng hay liên hệ bài học với đời sống hàng ngày của học sinh, giáo viên thường chỉ chú ý đến trình độ chung của cả lớp mà không chú ý phân hóa đối tượng học sinh. Đây cũng là hạn chế chung thường thấy trong các lớp học truyền thống: giáo viên chỉ hướng tới một bộ phận học sinh chứ không phải tất cả học sinh trong lớp.
Đa số giáo viên đều nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới PPDH. Nhưng trên thực tế, giáo viên gặp phải rất nhiều khó khăn bởi đã quá quen thuộc với PPDH truyền thống. Trong một giờ học 35 phút, giáo viên hầu như chỉ tập trung vào mục đích duy nhất là làm thế nào để truyền đạt những thông tin khác nhau trong SGK cho học sinh một cách chính xác và hiệu quả. Khi chuẩn bị giáo án, giáo viên ít khi nghĩ tới sự quan tâm và hứng thú của học sinh. Khi giảng bài, giáo viên cũng chưa thực sự quan tâm tới việc những thông tin đó có liên hệ như thế náo với kinh nghiệm hàng ngày của học sinh và áp dụng chúng như thế nào trong cuộc sống hàng ngày. Từ đây dẫn tới những hiểu lầm như: áp dụng không đúng các hoạt động học tập trên lớp; áp dụng không đúng các hoạt động nhóm trên lớp và hiểu nhầm ý nghĩa của từ “hứng thú”. Hiểu nhầm này thường thấy trong các môn Tự nhiên và Xã hội, Địa lí, Lịch sử và Khoa học. Từ những hiểu nhầm như thế dẫn tới việc đổi mới dạy học môn Tự nhiên và Xã hội và các môn học khác ở Tiểu học gặp nhiều khó khăn.
Dạy học Tự nhiên và Xã hội không chỉ đơn giản là cung cấp những kiến thức cơ bản mà còn bước đầu phát triển tư duy, năng lực suy nghĩ cho học sinh. Mục đích hướng tới là giúp học sinh có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học về tự nhiên và xã hội vào giải quyết những nhiệm vụ, những vấn đề đơn giản trong thực tiễn. Tuy nhiên, trên thực tế giáo viên còn hạn chế trong việc tiếp cận với các PPDH tích cực. Ngoài ra, do thiếu lòng tin vào khả năng học tập của học sinh (giáo viên thường giảng bài, giải thích cặn kẽ vì sợ học sinh không hiểu bài) nên hầu như giáo viên là người đưa ra và giải thích cho mọi vấn đề.
Nhìn chung, giáo viên đều nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới dạy học sao cho đạt hiệu quả, phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, vấn đề là giáo viên quan niệm như thế nào về một tiết học theo định hướng đổi mới? Khi tổ chức dạy học, điều quan trọng với giáo viên là những đích trước mắt, là mục tiêu cụ thể của bài học, tiết học.
Với môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3, đa số giáo viên đều nhận thấy được vai trò của PPDH bằng Bản đồ tư duy. Giáo viên đều cho rằng phương pháp này giúp học sinh có điều kiện củng cố, tái hiện kiến thức bài học, kích thích sự hứng thú học tập và mang lại những tích cực về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sang tạo của học sinh. Sau đó, PPDH này giúp học sinh liên hệ kiến thức của nhiều lĩnh vực, phát huy tính chủ động, tự lực trong học tập của học sinh, rèn luyện năng lực cộng tác học tập của học sinh, rèn luyện tính kiên trì, bền bỉ, cẩn thận.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả việc sử dụng PPDH bằng lược đồ tư duy. Nguyên nhân chủ yếu đầu tiên được kể đến là do thói quen học tập thụ động của học sinh, tiếp theo là điều kiện dạy học (cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị dạy học) còn nghèo nàn. Nhiều giáo viên còn cho rằng việc kiểm tra đánh giá còn nặng nề, chưa khuyến khích học sinh cách học sáng tạo cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng. Cuối cùng là nguyên nhân từ phía giáo viên còn lúng túng chưa có điều kiện để tiếp cận với các PPDH tích cực.
Phần lớn giáo viên cho rằng nguyên nhân số một ảnh hưởng đến chất lượng dạy học Tự nhiên và Xã hội hiện nay là sự thụ động của học sinh. Điều này cho thấy rằng về nhận thức, giáo viên đã xác định được học sinh có vai trò rất lớn quyết định đến kết quả trong quá trình dạy học. Sau đó là nguyên nhân khách quan khác như việc kiểm tra, đánh giá, điều kiện cơ sở vật chất, sau cùng mới là nguyên nhân từ giáo viên. Phân tích bản chất của quá trình dạy học cho thấy hoạt động dạy và hoạt động học thống nhất chặt chẽ với nhau. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của học sinh song vai trò tổ chức, hướng dẫn của giáo viên cũng rất quan trọng. Ngoài ra, nhiều giáo viên còn chia sẻ thêm những khó khăn là do học sinh lớp quá đông, trình độ học sinh trong lớp không đồng đều nên việc thiết kế, xây dựng bài học có sử dụng Bản đồ tư duy phù hợp với học sinh còn gặp khó khăn.
Như vậy, qua điều tra khảo sát thực tế cho thấy đa số giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới dạy học nên việc tổ chức dạy học nói chung và dạy học Tự nhiên và Xã hội nói riêng đã có những điều chỉnh nhất định nhất là về PPDH. Tuy nhiên việc tổ chức dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 3 còn nhiều hạn chế, về cơ bản là chưa đổi mới, nhất là đổi mới theo hướng phát huy tích cực, chủ động, tự giác của học sinh.
II. Xây dựng quy trình sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 
2.1. Nguyên tắc xây dựng quy trình dạy học bằng phương pháp Bản đồ tư duy trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 3
	- Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích: cần xác định rõ các mục tiêu, nội dung cụ thể từng bài học, trên cơ sở đó xây dựng được nội dung bám sát bài học. Bản đồ tư duy phải được xây dựng sao cho sau khi hoàn thành, giáo viên có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của học sinh. Định hướng đổi mới kiểm tra đánh giá được thể hiện rõ trong quan điểm về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập hiện nay. Tức là, quy trình dạy học xây dựng phải coi trọng đánh giá các mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ, đặc biệt lưu tâm mục tiêu về kĩ năng và thái độ.
	- Nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với logic nhận thức: học sinh tiểu học mang những đặc điểm nhận thức đặc trưng của lứa tuổi vì vậy nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với logic nhận thức đòi hỏi khi tiến hành xây dựng Bản đồ tư duy, giáo viên cần đưa ra những cách thức để kích thích học sinh phải sử dụng toàn bộ hoạt động của não một cách đồng bộ tức là có sự kết hợp phưc tạp giữa ngôn ngữ, hình ảnh, màu sắc, âm thanh và giai điệu. Hơn nữa để vẽ được Bản đồ tư duy học sinh cũng phải sử dụng trí tưởng tượng vì thế trong quá trình dạy học giáo viên nên sử dụng những cách thức để khơi gợi trí tưởng tượng của học sinh. Bằng trí tưởng tượng của mình, học sinh xây dựng các sơ đồ mô hình và tiến hành thao tác với các “vật liệu” ấy. Khi được nhận sự kiện mới làm nảy sinh, kích thích, khơi gợi, những thông tin từ trong não bật ra tự nhiên và dễ dàng, những hình vẽ, kí hiệu, màu sắc đóng vai trò quan trọng trong tưởng tượng nếu không có chúng thì không thể tạo ra được sự liên kết giữa các ý tưởng. Học sinh không chỉ là người tiếp nhận thông tin một phía từ giáo viên mà còn cần phải suy nghĩ về các thông tin đó, giải thích nó và kết nối nó với cách hiểu biết của mình từ đó tự hoàn thành được Bản đồ tư duy bài học của mình.
	- Nguyên tắc đảm bảo vai trò chủ thể của học sinh: Dạy học bằng Bản đồ tư duy là PPDH tích cực theo quan điểm lấy người học làm trung tâm. Khi học tập, tri thức được lĩnh hội thông qua việc chủ thể nhận thức tự cấu trúc vào hệ thống bên trong của mình. Do đó, cần tổ chức sự tương tác giữa người học và đối tượng học tập, tạo điều kiện cho học sinh tự tìm hiểu, sáng tạo từ đó mà cấu trúc mới tư duy của mình. Theo đó trong quá trình vận dụng PPDH bằng Bản đồ tư duy, giáo viên cần lưu ý các vấn đề: Việc học tập chỉ có thể được thực hiện qua hoạt động tích cực của người học. Tổ chức dạy học cần quan tâm đúng mức tới vai trò của học sinh; Nội dung học tập cần hướng vào hứng thú của người học với mức độ phức hợp khác nhau. Vì người học tự nhận thức với những vấn đề được gây hứng thú; Trong dạy học cũng cần có niềm tin vào khả năng của học sinh, cho học sinh được cơ hội được thể hiện mình, được tự giải quyết vấn đề, qua đó phát triển năng lực bản than; Học tập hợp tác có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.
2.2 Đề xuất quy trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 bằng phương pháp Bản đồ tư duy
a. Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh vẽ Bản đồ tư duy
Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm (trên một tờ giấy đặt nằm ngang). Quy tắc:
- Cần phải vẽ chủ đề ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý khác.
- Có thể tự do sử dụng tất cả màu sắc mà bạn thích.
- Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần 
được làm nổi bật dễ nhớ, chủ đề vẽ to vừa đủ.
- Có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
Bước 2: Vẽ các tiêu đề phụ. Quy tắc:
- Tiêu đề phụ nên được viết bằng CHỮ IN HOA nằm trên các nhánh dày để làm nổi bật.
- Tiêu đề phụ nên được vẽ gắn liền với trung tâm.
- Tiêu đề phụ nên được vẽ theo hướng chéo góc (chứ không nằm ngang) để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ, vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ. Quy tắc vẽ ý chính và chi tiết hỗ trợ:
- Chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh
- Hãy dùng biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian.
- Mỗi từ khóa/hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh.
- Tất cả các nhánh của một ý nên tỏa ra từ một điểm.
- Tất cả các nhánh tỏa ra từ một điểm (thuộc cùng một ý) nên có cùng một màu.
- Thay đổi màu sắc khi đi từ một ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
Bước 4: Ở bước cuối cùng này, hãy để trí tưởng tượng của bạn bay bổng. Bạn có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật, cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ của bạn tốt hơn.
*Lưu ý khi sử dụng Bản đồ tư duy:
Màu sắc cũng có tác dụng kích thích não bộ như hình ảnh. Tuy nhiên, học sinh cũng không cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc. Học sinh có thể chỉ cần dùng một, hai màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian, có thể gạch chéo, đánh dấu cộng, chấm bi
Vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự mềm mại, cuốn hút.
Nếu trên mỗi nhánh học sinh viết đầy đủ cả câu thì như vậy học sinh sẽ dập tắt khả năng gợi mở và liên tưởng của bộ não.
Giáo viên nên thường xuyên cho học sinh sử dụng Bản đồ tư duy khi làm việc nhóm và hệ thống kiến thức đã học trong môn Tự nhiên và Xã

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_de_ho_tro_day_ho.doc