Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh

 Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học đã được các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lí chỉ đạo cũng như giáo viên trực tiếp giảng dạy đặc biệt quan tâm.

 Đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu tìm con đường ngắn nhất để đạt chất lượng và hiệu quả cao. Con đường này không có sẵn, không bằng phẳng mà đầy chông gai, khúc khuỷu, gập ghềnh với sự đan xen giữa cái chung và cái riêng, cái cũ và cái mới. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bao gồm cả hai mặt: Phải đưa vào các PPDH mới đồng thời đồng thời tích cực phát huy những ưu điểm của PPDH truyền thống. Lý luận dạy học đã khẳng định không có phương pháp vạn năng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, yếu tố kinh nghiệm và sự kế thừa thể hiện khá đậm nét (thuyết trình, vấn đáp là những phương pháp rất xưa cũ nhưng hiện tại vẫn được sử dụng trong các tiết dạy với mức độ đậm nhạt khác nhau). Đổi mới PPDH là sự kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới của PPDH hiện đại. Với cách nhìn từ phương pháp mới, giáo viên có thể thực hiện việc cải tiến PPDH nói chung và môn Tiếng Việt lớp 5 nói riêng nhằm gây hứng thú học tập, tạo niềm tin, niềm vui bằng sự hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết để học sinh giao tiếp. Thông qua việc dạy Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy.

 

doc 11 trang Chí Tường 20/08/2023 7300
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh

Báo cáo biện pháp Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
ũ và cái mới. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bao gồm cả hai mặt: Phải đưa vào các PPDH mới đồng thời đồng thời tích cực phát huy những ưu điểm của PPDH truyền thống. Lý luận dạy học đã khẳng định không có phương pháp vạn năng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, yếu tố kinh nghiệm và sự kế thừa thể hiện khá đậm nét (thuyết trình, vấn đáp là những phương pháp rất xưa cũ nhưng hiện tại vẫn được sử dụng trong các tiết dạy với mức độ đậm nhạt khác nhau). Đổi mới PPDH là sự kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới của PPDH hiện đại. Với cách nhìn từ phương pháp mới, giáo viên có thể thực hiện việc cải tiến PPDH nói chung và môn Tiếng Việt lớp 5 nói riêng nhằm gây hứng thú học tập, tạo niềm tin, niềm vui bằng sự hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết để học sinh giao tiếp. Thông qua việc dạy Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy.
Tiếng Việt là tiếng ghi âm, nghĩa là viết như thế nào thì đọc như thế ấy, có đọc được thì mới hiểu được nội dung. Vì thế phân môn Tập đọc có vị trí đặc biệt trong chương trình Tiểu học. Nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh Tiểu học đồng thời làm cơ sở, nền móng cho mọi sự phát triển. Đọc trở thành nhiệm vụ cấp thiết của mỗi người đi học. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội. 
Nhờ đọc mà con người bày tỏ ý kiến của mình. Từ đó con người có điều kiện tự học và hiểu biết các môn học khác. Như vậy có thể khẳng định rằng đọc là cầu nối của mọi tri thức, của mọi môn học. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Bởi vậy dạy cho học sinh biết đọc, đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng. 
Trong thực tế hiện nay, ở trường Tiểu học việc dạy đọc, bên cạnh những thành công, còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa đọc được như mong muốn, kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các giờ Tập đọc thì hầu như học sinh chỉ mới biết đọc đúng, đọc trơn, số lượng học sinh biết đọc diễn cảm tốt còn rất hữu hạn. Giáo viên tiểu học còn lúng túng khi dạy Tập đọc đồng thời những phương pháp cụ thể hướng dẫn rèn đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học cũng rất ít được quan tâm.
Vậy để giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm, hiểu và cảm thụ được bài văn, bài thơ thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng mới đó là “Mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt động học tập”.
 Trong thực tế giảng dạy của giáo viên cũng như việc học tập của học sinh và kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của trường, để đảm bảo cho chất lượng cuối năm thực sự là những con số thật, tránh được hiện tượng học sinh ngồi nhầm lớp và để học sinh có thể học tốt môn văn trong chương trình Trung học cơ sở, tôi thấy việc đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 là thực sự cần thiết.
	Mục tiêu cần đạt của môn Tập đọc lớp 5 là: hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe - nói - đọc - viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
	Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy, kiến thức sơ giản về tự nhiên, về xã hội, văn hoá, văn học, về con người trong nước và nước ngoài.
	Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Ở lớp 5, các mục tiêu của môn Tiếng Việt được cụ thể hoá thành những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng đối với học sinh đó là các kĩ năng nghe - nói - đọc - viết. Cụ thể nghiên cứu về đọc:
	Biết cách đọc các loại văn bản hành chính, khoa học, báo chí, văn học phù hợp với nội dung văn bản thể hiện được tình cảm, thái độ của tác giả, giọng điệu của nhân vật thông qua giọng đọc.
	Biết đọc thầm với tốc độ nhanh hơn học sinh lớp 4.
	Biết cách xác định đại ý của bài, chia đoạn văn bản, nhận ra mối quan hệ giữ các nhân vật, tình tiết trong bài, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật trong các bài tập đọc có giá trị văn chương.
 Xuất phát từ việc nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 qua phân môn Tập đọc. Để chỉ đạo tốt công tác giảng dạy phân môn Tập đọc của giáo viên tôi đã chọn đề tài “ Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh” làm đề tài nghiên cứu.
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG VIỆC RÈN ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH TIỂU HỌC 
 Qua qu¸ tr×nh gi¶ng dạy nhiÒu n¨m ë tr­êng TiÓu häc, t«i nhËn thÊy viÖc rÌn ®äc diÔn c¶m cho häc sinh có những thuận lợi và khó khăn như sau:
	Phân môn Tập đọc có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học. Do đó, vấn đề dạy học phân môn Tập đọc hiện nay rất được chú trọng. Có nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng đọc của các em nâng lên. Nhưng nhìn chung chủ yếu chỉ tập trung đến các lớp đầu cấp để làm sao các em đọc đúng, đọc trôi chảy là được. Còn ở các lớp cuối cấp, giáo viên chỉ tập trung nhận xét cách đọc đúng, đọc trơn chứ chưa có biện pháp cụ thể để dành cho việc luyện đọc diễn cảm. 
 Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc của học sinh lớp 5, bản thân tôi nhận thấy: học sinh có nhiều điều kiện tốt giúp cho việc rèn đọc có kết quả. Những điều kiện đó là về chương trình, trình độ quan tâm ciuar gia đình, thầy cô và bạn bè. 
 MÆc dï cã thuËn lîi nh­ vËy, thùc tÕ t«i thÊy kh¶ n¨ng ®äc cña häc sinh kh«ng ®ång ®Òu, mét sè em cã kh¶ n¨ng ®äc rÊt tèt chØ lµ sau khi nghe gi¸o viªn ®äc mÉu vµ h­íng dÉn lµ c¸c em cã thÓ ®äc kh¸ ®¹t mét t¸c phÈm. Song bªn c¹nh ®ã, cã nh÷ng em cã kh¶ n¨ng ®äc cßn h¹n chÕ mÆc dï ®· ®­îc h­íng dÉn tØ mØ. Nguyªn nh©n t×nh tr¹ng nµy cã c¶ nguyªn chñ quan vµ kh¸ch quan. 
 Qua tìm hiểu tôi rút ra được một số nguyên nhân sau: 
- Học sinh đọc chưa đúng cách phát âm theo phương ngữ, thường phát âm lệch chuẩn viết, cụ thể các em thường mắc lỗi sau:
	 + Các lỗi phụ âm đầu: l/n. Ví dụ: nổi lửa/ lổi lửa; nấu nướng/ lấu lướng
	 + Các lỗi về thanh: Các em đọc còn nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh sắc. Ví dụ: suy nghĩ/ suy nghí; nghĩ kĩ/ nghí kí
- Học sinh đọc chưa hay, chưa có tình cảm 
+ Do các em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết nhấn giọng, lên giọng hạ giọng những từ cần thiết.
	 + Do các em lười đọc sách không chịu khó rèn đọc.
- Học sinh chưa tìm hiểu kĩ nội dung bài đọc, chưa xác định được nội dung chính và giọng đọc toàn bài do học sinh chỉ đọc lướt qua và chưa trả lời các câu hỏi cuối mỗi bài tập đọc
	Do đó ngay từ đầu năm học, trong phạm vi nghiên cứu, tôi đã thống kê chất lượng đọc của học sinh lớp 5A7 như sau:
Bảng chất lượng khảo sát phân môn Tập đọc lớp 5A7 đầu năm
 Lớp
Tổng số HS
Số em đọc chưa đạt yêu cầu
Số em đọc đạt trung bình
Số em đọc đúng, rõ ràng
Số em đọc diễn cảm tốt
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5A7
45
9
20
11
24,4
16
35,6
9
20
 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH
 Để đưa chất lượng đọc đúng, đọc diễn cảm có sự thay đổi, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:
 1. Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo
	Như chúng ta đã biết đọc diễn cảm chỉ thực hiện được trên cơ sở học sinh đã đọc đúng và đọc lưu loát. Đọc đúng không đọc thừa, không sót tiếng. Đọc đúng phải thể hiện được hệ thống ngôn ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Bởi vậy việc rèn cho học sinh luyện đọc đúng là khâu đầu tiên của việc rèn đọc diễn cảm và đã thực hiện ở các lớp 1, 2, 3, 4. Đối với học sinh lớp 5 thì việc luyện đọc đúng được rèn luyện như sau: 
 a. Luyện đọc đúng:
- Trước khi tiến hành luyện đọc, chia văn bản thành các đoạn đọc (đơn vị chia tạm thời, không phải bao giờ cũng đồng nhất với cách chia đoạn theo bố cục của văn bản) mà giáo viên căn cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để chia văn bản thành các đoạn, sao cho các đoạn không quá dài hoặc quá chênh lệch nhau về chữ số, cách ngắt đoạn không quá chi li, gây khó khăn cho học sinh đọc theo dõi và đọc nối tiếp.
- Dựa vào số đoạn, giáo viên chỉ định trước số học sinh thạm gia đọc nối tiếp ở mỗi vòng đọc. Học sinh có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn sàng đọc nối tiếp.
- Để củng cố kĩ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới, giáo viên nên hướng dẫn học sinh đọc nối tiếp qua 3 vòng:
+ Vòng 1: Qua những học sinh đọc nối tiếp, giáo viên nghe và phát hiện những hạn chế về cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện pháp hướng dẫn đối với cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để học sinh đạt yêu cầu đọc đứng và đọc rành mạch.
+ Vòng 2: Học sinh đọc nối tiếp, kết hợp nắm nghĩa của từ được chú giải trong SGK, nó có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc hiểu (việc tìm hiểu nghĩa từ có thể xen kẽ trong quá trìng đọc nối tiếp hoặc sau khi đọc hết bài). Nếu học sinh đọc sai, giáo viên vẫn tiếp tục hướng dẫn, sửa chữa.
+ Vòng 3: Học sinh đọc nối tiếp để giáo viên đánh giá sự tiến bộ, tiếp tục hướng dẫn hoặc nhắc nhở.
	Việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp tạo điều kiện cho nhiều học sinh được thực hành đọc. Qua thực hành mà học sinh được giáo viên chỉ dẫn, uốn nắn hay động viên, khích lệ để đạt được vững chắc kĩ năng đọc, chuẩn bị luyện tập kĩ năng mới: Đọc diễn cảm.
 b. Luyện đọc hay (đọc diễn cảm)
- Đối với loại hình văn bản nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở giúp học sinh hiểu biết thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài(Bước đầu biết làm chủ được giọng đọc về ngữ điệu, về tốc độ, trường độ và âm sắc, diễn tả đúng nội dung). Tuy nhiên, học sinh đọc diễn cảm như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm nhận riêng của từng em, giáo viên không nên áp đặt học sinh một cách theo khuôn mẫu.
- Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo (làm rõ những thông tin c¬ bản, giúp người nghe tiếp nhậ được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản) khắc phục những cách đọc thiên về hình thức “diễn cảm” của học sinh Tiểu học.
 c. Các hình thức luyện đọc
	Để hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động theo các hình thức sau:
- Đọc cá nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc trước lớp hoặc đọc theo cặp, theo nhóm).
- Đọc theo phân vai (nhiều học sinh hợp tác đọc theo lời nhân vật mình đóng vai, tham gia các trò chơi luyện đọc).
 d. Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trao đổi kĩ năng đọc - hiểu, góp phần năng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn cảm.
	Nắm được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc chung của đoạn, của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, mạnh mẽ
- Giáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm (đoạn, bài) và trả lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng. 
 2. Giáo viên đọc mẫu diễn cảm
	Đọc mẫu diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Phải hoà nhập tâm hồn với nội dung bài đọc, với văn cảnh thì mới có cảm xúc, mới tìm thấy ngữ điệu phù hợp.
	Đọc mẫu đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng, ngữ điệu đọc phù hợp. Đó là việc thể hiện giọng đọc, ngắt giọng biểu cảm, thể hiện tốc độ, cường độ, cao độ để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
Giáo viên đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Ví dụ: Nghe và phát hiện cách đọc của cô; ngừng nghỉ, ngắt nhịp ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ nào?...Mỗi cá nhân có cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn cảm bộc lộ sự sáng tạo của mình.
	Muốn học sinh đọc hay, đọc đúng, đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên phải đọc tốt để thâm nhập, lây truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học sinh trong tiết học. Để đọc tốt thì người giáo viên luôn coi trọng việc đọc mẫu để từ đó thường xuyên rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức tự điều chỉnh mình đọc đúng hơn và phải có lòng ham muốn đọc hay.
 3. Luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản
	Tạo điệu kiện cho từng học sinh được thực hành luyện đọc diễn cảm (theo cặp, theo nhóm) để rút kinh nghiệm.
- Luyện đọc diễn cảm các câu tiêu biểu trong bài: Cách luyện đọc này tạo điệu kiện cho tất cả học sinh đều được đọc. Theo các bước sau:
+ Giáo viên đưa ra câu cần luyện đọc đã ghi ở bảng phụ
+ Học sinh tìm hiểu nghĩa của câu văn đó.
+ Học sinh xác định giọng đọc của câu văn.
+ Học sinh đọc mẫu (Giáo viên đọc mẫu) – Học sinh thảo luận, nhận xét về giọng đọc của cô, của bạn mà mình yêu thích.
+ Học sinh luyện đọc theo nhóm, tổ, cá nhân.
- Luyện đọc diễn cảm đoạn văn hoặc khổ thơ.
Giáo viên cho học sinh nhắc lại cách thể hiện giọng đọc, cách ngắt giọng, nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm trong đoạn hoặc khổ thơ đó rồi cho học sinh luyện đọc theo trình tự các bước: 
+ Giáo viên đọc mẫu – Học sinh thảo luận, nhận xét về giọng đọc.
+ Học sinh luyện đọc theo cặp.
+ Tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau và được giáo viên động viên hay uốn nắn.
- Học sinh luyện đọc diễn cảm cả bài.
+ Giáo viên tiến hành các bước như trên.
+ Học sinh đọc cá nhân – Giáo viên nhận xét đánh giá.
 Đối với những văn bản có từ hai nhân vật trở lên, tổ chức cho học sinh thể hiện giọng đọc theo nhân vật của văn bản hoặc cho học sinh đọc phân vai. Rèn cho các em biết thay đổi giọng đọc khi nhập vai các nhân vật trong bài đọc. Cụ thể các em phải đọc phân biệt được lời của tác giả và lời của nhân vật; phân biệt được lời của nhân vật khác. Giáo viên nên hướng dẫn như sau:
- Cho học sinh đọc bài và tìm trong bài có mấy nhân vật.
- Giáo viên giúp học sinh chỉ ra từng tính cách của từng nhân vật và xác định giọng đọc phù hợp với từng nhân vật
- Giáo viên thực hiện đọc mẫu lời các nhân vật bằng giọng đọc của mình (hoặc có thể gọi học sinh có năng lực đọc tốt thể hiện)
- Học sinh luyện tập nhiều lần theo hướng dẫn của giáo viên.
 4. Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách tổ chức các trò chơi học tập trong giờ Tập đọc
	Để kích thích hứng thú luyện đọc của học sinh, giáo viên có thể tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh. Thông qua các trò chơi kích thích hứng thú đọc; rèn tư duy linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng, tình cảm tốt đẹp.
	Trò chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc diễn cảm (HTL). Tuỳ thời gian và điều kiện cho phép, giáo viên lựa chọn trò chơi học tập thích hợp để tổ chức cho học sinh tham gia. Ví dụ: Thi đọc nối tiếp từng đoạn (theo nhóm, tổ), đọc “truyền điện” thi tìm nhanh - đọc đúng; nhìn một từ đọc cả câu (hoặc nhìn một câu đọc cả đoạn), nghe đọc đoạn - đoán tên bài; thi đọc truyện theo vai, thả thơ
	Dưới đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi luyện đọc như sau:
 a. Thi đọc tiếp sức:
	 * Chuẩn bị: 1 đồng hồ, SGK, giáo viên dự kiến số nhóm tham gia chơi.
	 * Tiến hành:
	 - Giáo viên yêu cầu, hướng dẫn cách chơi.
	 - Giáo viên quy định các nhóm có số lượng học sinh bằng nhau.
	 - Từng nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang. Mỗi em cầm một cuốn SGK, đã mở sẵn trong đó có bài văn sẽ thi đọc.
	 - Giáo viên hô lệnh: “bắt đầu”, em số 1 (đầu hàng bên phải hoặc bên trái) đọc câu thứ nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng câu thứ nhất, em số 2 (cạnh số 1) mới được đọc tiếp câu thứ haiCứ như vậy cho đến em cuối cùng của nhóm. Nếu chưa hết bài, câu tiếp theo lại đến lượt em số 1, em số 2 đọccho đến hết bài văn thì dừng lại – Giáo viên tính và ghi bảng thời gian đọc của mỗi nhóm.
	- Học sinh sẽ bị trừ điểm nếu đọc sai lẫn hay thừa thiếu tiếng trong câu hoặc đọc câu sau khi người trước chưa đọc xong, đọc vượt quá một câu theo quy định.
	- Giáo viên cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian của mỗi nhóm cho điểm nhóm “đọc tiếp sức” mỗi câu văn đọc đúng cho một điểm, không cho điểm các trường hợp vi phạm.
	- Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương nhóm đọc tiếp sức nhanh nhất, hay nhất.
* Lưu ý: ở tiết Tập đọc một bài thơ, giáo viên nên cho học sinh đọc 2 dòng hoặc một câu lục bát. Nếu là tiết Tập đọc – Học thuộc lòng, giáo viên cho thi 
tiếp sức theo cách trên nhưng học sinh không nhìn SGK.
 b. Thả thơ:
	 * Chuẩn bị: Giáo viên viết vào phiếu câu thơ đầu (hoặc giữa) ở mỗi khổ thơ, hoặc 1- 2 từ đầu của mỗi câu thơ. 
 Ví dụ bài: Hành trình của bầy ong (Tập đọc – Học thuộc lòng, lớp 5)
 Giáo viên làm các phiếu như sau:
	Phiếu 1: Với đôi cánhsắc màu
	Phiếu 2: Tìm nơikhông tên
	Phiếu 3: Bầy ong...mật thơm
	 * Tiến hành: Giáo viến hướng dẫn cách chơi và nêu yêu cầu:
	- Mỗi lượt chơi gồm 2 nhóm và số người bằng số phiếu mỗi nhóm cử nhóm trưởng, 2 nhóm trưởng bốc thăm để giành quyền “thả thơ” trước.
	- Mỗi em trong nhóm cầm 1 tờ phiếu (giữ kín). Giáo viên hô “bắt đầu” nhóm được thả thơ trước cử 1 người thả ra một tờ phiếu cho một bạn nhóm kia. Bạn nhận được phiếu phải đọc thuộc cả khổ thơ (hoặc câu thơ lục bát) có câu từ ghi trên phiếu. Nếu đọc đúng được tính 1 điểm.
	- Giáo viên tính số điểm của nhóm đọc thuộc thơ. Đổi nhóm chơi tương tự như trên. Giáo viên tính điểm nhóm thứ 2.
- Kết thúc trò chơi: Giáo viên tuyên dương nhóm đọc tốt, điểm cao.
c. Đọc thơ truyền điện
	* Chuẩn bị: Thời điểm chơi cuối tiết Tập đọc – HTL; Hoặc tiết ôn tập HTL. Học sinh 2 nhóm ngồi quay mặt vào nhau.
	* Tiến hành: 
	- Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi.
	- Hai nhóm bắt thăm (hoặc oẳn tù tì) để giành quyền đọc trước.
	 + Đại diện nhóm đọc trước là (A) đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ rồi chỉ định thật nhanh “truyền điện” một bạn bất kì (nhóm B). Bạn được chỉ định đọc tiếp khổ thơ thứ 2 của bài. Nếu đọc thuộc được chỉ định một bạn nhóm (A) đọc tiếp khổ thơ thứ 3Cứ như vậy cho đến hết bài.
	Ví dụ: Bài “Bầm ơi” (lớp 5)
	 HS A1: Đọc khổ thơ 1
	 HS B1: Đọc khổ thơ 2
	 HS A2: Đọc khổ thơ 3
	Tiếp tục như vậy cho hết bài. Trường hợp học sinh được “truyền điện” chưa thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5, nếu không đọc được phải đứng yên tại chỗ bị “điện giật” Lúc đó HS A1 chỉ tiếp HS B2
Nhóm nào có nhiều người phải đứng bị “điện giật” là nhóm thua cuộc. Như vậy, ta thấy tổ chức trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh hào hứng, say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh ham mê học hơn.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI VẬN DỤNG SÁNG KIẾN
 Tuy thời gian không dài nhưng với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên, hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc chưa đạt yêu cầu đã giảm đi. Số em đọc đúng, đọc diễn cảm được nâng lên rõ rệt. Kết quả thực nghiệm được thể hiện qua bảng sau:
Bảng kết quả thực nghiệm
 Lớp
Tổng số HS
Số em đọc chưa đạt yêu cầu
Số em đọc đạt trung bình
Số em đọc đúng, rõ ràng
Số em đọc diễn cảm tốt
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5A7
45
0
0
1
2,2
16
35,6
28
62,2
 Như vậy với một thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà tôi đưa ra đã thu được kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng các biện pháp này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng đọc diễn cảm của các em được nâng lên.
KẾT LUẬN
Trên đây tôi đã đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh góp phần vµo viÖc d¹y nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng dạy - học môn Tiếng Việt nói riêng. Sáng kiến giúp hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc chưa đạt yêu cầu đã giảm đi. Số em đọc đúng, đọc diễn cảm được nâng lên rõ rệt
 Đó là những kinh nghiệm mà tôi đã tìm tòi, nghiên cứu qua thực tế công tác giảng dạy của mình. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp để những giải pháp của tôi đạt quả hơn nữa.
 Tôi xin cam kết không sao chép của ai
Long Biê

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_ren_ki_nang_doc_dien_cam_cho_hoc_sinh.doc