Báo cáo biện pháp Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS Thượng Thanh thông qua việc giáo dục học sinh đặc biệt

 Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là phát huy vai trò của GVCN, tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, bên cạnh đó là sự giáo dục toàn diện cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục 2005 đã xác định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân” ( Điều 23 – Luật giáo dục). Về mặt thực tiễn, hội nhập kinh tế bên cạnh mặt tích cực, nó còn làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do tư sản, làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nền kinh tế thị trường phát triển có nhiều mặt tốt làm cho con người sống năng động hơn, thực tế hơn và tất nhiên cũng mang lại một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn. Chúng ta đã được tiếp cận với thế giới văn minh nhiều hơn, chất lượng cuộc sống về mọi mặt được nâng lên rõ rệt, nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào ngõ ngách của cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt mặt tiêu cực của cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ vào quan hệ gia đình và nền giáo dục mà đối tượng bị tác động không nhỏ chính là học sinh (nhất là lứa tuổi THCS)

doc 58 trang Chí Tường 20/08/2023 7700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS Thượng Thanh thông qua việc giáo dục học sinh đặc biệt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS Thượng Thanh thông qua việc giáo dục học sinh đặc biệt

Báo cáo biện pháp Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS Thượng Thanh thông qua việc giáo dục học sinh đặc biệt
o học sinh chủ động có ý thức trong tiếp nhận các tác động giáo dục, chỉ khi nào họ tích cực, sáng tạo trong các hoạt động học tập và tự tu dưỡng mới có thể giúp họ hình thành tình cảm, thói quen và hành vi tốt.
 Đối với học sinh THCS khi thực hiện nguyên tắc này các nhà giáo dục cần lưu ý:
Giúp đỡ học sinh tự xây dựng kế hoạch học tập và phấn đấu vươn lên theo từng năm học, xác định đúng mục đích, nội dung và phương pháp học tập, tu dưỡng phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
Thu hút sự tham gia tích cực của học sinh vào các hoạt động chung, thường xuyên theo dõi, động viên uốn nắn những sai lệch một cách kịp thời.
Phát huy vai trò tự quản của tập thể học sinh, biến những yêu cầu giáo dục thành yêu cầu giáo dục của tập thể và từng cá nhân.
Tôn trọng và khuyến khích những ý tưởng tốt, những sáng kiến hay của cá nhân và tập thể, tin tưởng, động viên để phát huy nhiều hơn nữa tính tích cực, sáng tạo của họ.
Giúp học sinh tự đánh giá kết quả rèn luyện của bản thân, của tập thể, từ đó đề ra các mục tiêu phấn đấu mới.
 Tóm lại: Để quá trình giáo dục đạt được những kết quả mong muốn, nhà giáo dục phải tuân thủ một hệ thống các nguyên tắc giáo dục. Mỗi nguyên tắc nhấn mạnh một mặt, một yêu cầu cụ thể, do vậy trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục, nhà giáo dục phải biết vận dụng linh hoạt, hợp lí vào các tình huống cụ thể. Nghệ thuật sư phạm cũng chính là nghệ thuật vận dụng linh hoạt các nguyên tắc giáo dục.
2. Phương pháp giáo dục 
 Phương pháp giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục học sinh. Giáo dục học sinh mà không tôn trọng các nguyên tắc giáo dục và không có phương pháp đúng đắn thì quá trình giáo dục sẽ thất bại, không đạt được mục tiêu, mục đích giáo dục. Để nắm được các phương pháp giáo dục trước hết phải hiểu: Bản chất của phương pháp giáo dục chính là cách thức tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho trẻ em hàng ngày, hàng giờ trong gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội. Phương pháp giáo dục rất đa dạng, được phân loại theo nhiều cách khác nhau nhưng trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ tập trung các phương pháp có liên quan đến giáo dục học sinh đặc biệt ở trường THCS.
2.1. Nhóm phương pháp tác động vào ý thức
 Nhóm phương pháp tác động vào ý thức có mục đích giúp học sinh có những hiểu biết mới hoặc xóa bỏ những nhận thức sai lầm đã mắc phải. Nhóm này gồm các phương pháp cụ thể sau:
2.1.1. Phương pháp khuyên bảo
 Khuyên bảo là phương pháp trò chuyện giữa nhà giáo dục với các đối tượng giáo dục, để tạo ra mối quan hệ thiện cảm, tin cậy lẫn nhau, để từ đó giúp các đối tượng giáo dục nhận thức được chân lí, lẽ phải, hiểu được nội dung, ý nghĩa của các qui tắc, chuẩn mực xã hội, biết được quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân trong các mối quan hệ với tập thể và cộng đồng xã hội, từ đó mà tu dưỡng rèn luyện để có thái độ và hành vi thói quen theo đúng chuẩn mực.
 Sử dụng phương pháp khuyên bảo, nhà giáo dục khéo léo tạo ra hoàn cảnh tự nhiên, cùng học sinh phân tích những sự kiện, những tình huống đã xảy ra, đánh giá nguyên nhân, hệ quả, từ đó mà điều chỉnh hành vi cho hợp lí và đưa ra các quyết định hành động. Sự khuyên bảo thường diễn ra trên quan hệ tình cảm và bằng uy tín của nhà giáo dục để cảm hóa học sinh.
 Phương pháp khuyên bảo được sử dụng trong các tình huống sau:
Khi đối tượng giáo dục không hiểu mà hành động sai. Nhà giáo dục với thái độ bao dung, chỉ ra cái đúng, cái sai, bằng những ví dụ thực tế để thuyết phục làm thay đổi nhận thức của học sinh.
Khi đối tượng hiểu đúng nhưng làm sai, như vậy là các em cố tình vi phạm những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Trong trường hợp này nhà giáo dục phải nghiêm khắc, khuyên bảo thường đi kèm với yêu cầu có tính chất nhắc nhở, bắt buộc.
Trong trường THCS để phương pháp khuyên bảo đạt hiệu quả cao, nhà giáo dục cần chú ý mấy điểm sau đây:
Bám sát đặc điểm tâm lí lứa tuổi thiếu niên và đặc điểm tâm lí cá nhân để có cách tiếp cận, tế nhị dẫn dắt câu chuyện theo mục đích giáo dục.
Lựa chọn thời điểm thích hợp, trong giờ giải lao, trong buổi lao động, trong hoạt động ngoại khóa để tạo tình huống tự nhiên, tình cảm cởi mở với các đối tượng giáo dục.
Nhà giáo dục chú ý lắng nghe, để cho các em được tự trình bày quan điểm, nguyện vọng từ đó mà chia sẻ, uốn nắn và khuyên bảo như người trong cuộc.
Cần sử dụng những lời lẽ lịch sự, nhẹ nhàng, chân thành, tránh mọi lời nói và hành vi thô bạo, xúc phạm đến nhân phẩm của học sinh.
Khuyên bảo là phương pháp chỉ có hiệu quả khi nhà giáo dục là người có cuộc sống gương mẫu, đạo đức trong sáng, chân thành, độ lượng và có uy tín đối với học sinh.
2.1.2. Phương pháp thảo luận
 Thảo luận là phương pháp tạo ra các cuộc đối thoại thẳng thắn giữa các thành viên của tập thể và các chủ đề thời sự đang diễn ra trong thực tế nhà trường và ngoài xã hội. Đối với lứa tuổi học sinh THCS, chủ đề thảo luận đa dạng như: tình bạn, tình yêu, học tập, sự nghiệp, thành đạt, vui chơi giải trí, thể dục thể thao, phòng chống tệ nạn xã hội
 Thảo luận được sử dụng khi cần giải đáp những vấn đề bức xúc, những tình huống khó xử, những sự kiện cụ thể, để tìm ra tiếng nói chung, nhằm tạo ra dư luận tốt để điều chỉnh nhận thức của mỗi cá nhân.
 Thảo luận tập thể là phương pháp cởi mở của những người trong cuộc, tự do bộc lộ quan điểm, ý kiến riêng, thẳng thắn phê phán hay tự bảo vệ quan điểm của mình hoặc thuyết phục người khác làm theo những quan diểm đúng. Thông qua thảo luận học sinh được chia sẻ với nhau những vướng mắc, những băn khoăn, xóa đi những bất đồng, cùng nhau tìm ra nguyên nhân và cách giải quyết một cách có tình, có lí.
 Phương pháp thảo luận rất phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS, vì các em đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, khát khao được khám phá cái mới trong cuộc sống, có nhu cầu vươn lên để tự khẳng định mình.
 Để phương pháp thảo luận đạt hiệu quả, nhà giáo dục ở trường THCS cần chú ý những điểm sau đây:
Lựa chọn những chủ đề hấp dẫn, có ý nghĩa thiết thực, gần gũi với cuộc sống của học sinh, không sa vào những vấn đề lí thuyết dài dòng, phức tạp.
Khéo léo tạo ra bầu không khí tự nhiên, tin cậy, phá vỡ rào cản tâm lí, những căng thẳng không cần thiết.
Khuyến khích học sinh tự do phát biểu ý kiến, nhà giao dục không áp đặt ý muốn chủ quan, không cắt ngang, không chỉ trích, không xúc phạm đến cá nhân trong khi tranh luận.
Yêu cầu mỗi học sinh có ý thức phục thiện, biết lắng nghe, biết chia sẻ ý kiến của người khác, dũng cảm từ bỏ những quan điểm không đúng, tự giác điều chỉnh bản thân.
Uy tín, sự tế nhị và cách lập luận sắc sảo của nhà giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng khi đặt vấn đề, khi định hướng tranh luận và đưa ra các kết luận xác đáng sẽ được học sinh chấp nhận, tuân theo.
2.1.3. Phương pháp tạo dư luận
 Tạo dư luận là phương pháp tác động đến học sinh bằng cách tạo ra những ý kiến, những quan điểm khác nhau về một sự kiện đang diễn ra trong tập thể, trong đó có những tiếng nói chính thức, để học sinh suy ngẫm, tự đánh giá qua đó biến những yêu cầu của nhà giáo dục thành yêu cầu của tập thể và mỗi cá nhân.
 Dư luận là những ý kiến đồng tình hay phê phán một sự việc, một hành vi đã và đang xảy ra trong tập thể. Dư luận sẽ tác động đến từng cá nhân như những yêu cầu chung của tập thể, khuyến khích hành vi tốt hoặc ngăn chặn những hành vi lệch chuẩn, để chúng không lặp lại.
 Sức mạnh tập thể là sức mạnh của dư luận lành mạnh, là biểu hiện thái độ của số đông thành viên trước những vấn đề cụ thể, tạo ra những trạng thái tâm lí đặc biệt trước những tình huống, sự kiện đã và đang xảy ra. Dư luận lành mạnh có tác dụng lôi cuốn các thành viên tham gia tích cực vào các hoạt động, phê phán những hành vi sai trái, giúp đỡ nhau khắc phục những thiếu sót, làm cho tập thể đoàn kết, gắn bó hơn.
 Đối với lứa tuổi học sinh THCS, phương pháp tạo dư luận có hiệu quả rất cao, bởi vì ở tuổi này các em muốn được sống với bạn bè, với tập thể trong bầu không khí chân thành và tin cậy. Tạo dư luận là phương pháp loại bỏ những nhận thức sai lệch của một cá nhân nào đó.
 Để phương pháp tạo dư luận có hiệu quả đối với học sinh THCS, nhà giáo dục cần lưu ý:
Luôn đề cao và tạo ra cho học sinh ý thức tự hào về những truyền thống tốt đẹp đã có của tập thể. Nhân lên những điển hình tốt, người tốt, việc tốt trong lớp, trong trường.
Luôn hoan nghênh và ủng hộ những cá nhân có ý tưởng hay, sáng kiến tốt; phê phán những hành vi sai trái, những biểu hiện thiếu lành mạnh.
Tôn trọng ban tự quản của học sinh, ủng hộ những ý kiến hay của lãnh đạo tập thể và những sáng kiến tốt của các thành viên.
Trong trường hợp ở tập thể xuất hiện dư luận “sai lệch” cần kịp thời tổ chức cho học sinh trao đổi, phân tích, đánh giá, hướng dẫn dư luận điều chỉnh kịp thời.
2.2. Nhóm phương pháp tạo lập hành vi, thói quen
 Nhóm phương pháp này qua tên gọi đã tự nó nói rõ mục đích là hình thành hành vi, thói quen có văn hóa cho các đối tượng giáo dục.
 Trong nhóm này có các phương pháp cụ thể sau đây:
2.2.1. Phương pháp giao việc
 Giao việc là phân công công việc cho từng cá nhân trong một tập thể, để lôi cuốn các em vào các hoạt động một cách tự giác, chủ động từ đó hình thành kĩ năng hoạt động và những hành vi, thói quen có văn hóa khác.
 Phương pháp giao việc nên được sử dụng từ sớm, lúc nhỏ trong gia đình, lớn lên trong Sao nhi đồng, Đội thiếu niên và sau đó là trong các lớp học.
 Trong trường THCS, giao việc có thể là: Phân công phụ trách các mặt công tác của lớp, của đội thiếu niên, đoàn thanh niên như: văn nghệ, thể thao, học tập, đội tự quản, trực nhật, vệ sinh, giúp bạn học yếu, các bạn có hoàn cảnh khó khăn, chăm sóc vườn hoa, cây cảnh
 Khi giao việc, công việc được ghi lại theo một thời gian biểu có người thực hiện, yêu cầu về sản phẩm cần có, giáo viên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc tiến trình công việc.
 Phương pháp giao việc là phương pháp gắn đối tượng giáo dục với trách nhiệm công việc, mỗi cá nhân xây dựng cho mình kế hoạch công tác, qua đó các em sẽ tự giác phát huy khả năng sáng tạo, cố gắng để hoàn thành công việc một cách tốt nhất.
 Trong quá trình thực hiện công việc, mỗi cá nhân phối hợp với các thành viên khác trong tập thể, từ đó hình thành tinh thần đoàn kết, ý thức hợp tácNhư vậy là qua thực hiện công việc được giao các em hình thành được nhiều phẩm chất tốt.
 Ở trường THCS, khi sử dụng phương pháp này các nhà giáo dục cần lưu ý:
Giao công việc phù hợp với sở trường, hứng thú và năng lực của từng cá nhân học sinh.
Thường xuyên theo dõi, giúp đỡ các em hoàn thành nhiệm vụ, động viên kịp thời những cá nhân có kết quả tốt trong công việc.
Phát huy tính độc lập, sáng tạo và tận dụng kinh nghiệm của mỗi cá nhân đối với công việc được giao.
Khuyến khích các cá nhân chia sẻ, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành công việc.
Tạo điều kiện cho các em về phương tiện, công cụ làm việc, hướng dẫn về phương pháp làm việc cho các em.
2.2.2. Phương pháp luyện tập
 Luyện tập là phương pháp đưa học sinh vào các hoạt động theo một kế hoạch chung, nhằm giúp các em thực hành công việc, qua đó hình thành kĩ năng hoạt động và thói quen hành vi. Luyện tâp còn giúp hình thành ý thức, thái độ tích cực và sáng tạo trong công việc, đó là con đường quan trọng để hình thành nhân cách.
 Phương pháp luyện tập cũng được sử dụng ngay từ lúc còn nhỏ trong gia đình, lớn lên trong nhà trường và trong các đoàn thể xã hội.
 Luyện tập được thực hiện dưới hai hình thức: luyện tập cá nhân và luyện tập tập thể.
 Luyện tập cá nhân là mỗi người thực hành một công việc cụ thể, qua đó hình thành ý thức tự giác, độc lập, sáng tạo, tính kiên trì bền bỉ, vượt qua khó khăn.
 Luyện tập tập thể là thực hành một công việc cần có sự hợp tác của nhiều người, qua đây hình thành ở mỗi người tính cộng đồng, tinh thần tương trợ, hợp tác cùng hoàn thành công việc chung.
 Khi sử dụng phương pháp luyện tập cần tiến hành theo qui tắc: chỉ ra cho học sinh mục tiêu, yêu cầu về chất lượng công việc một cách ngắn gọn, hướng dẫn phương pháp và kĩ năng làm việc, hoạt động càng phong phú, đa dạng thì giá trị giáo dục càng cao.
 Ở trường THCS, học sinh được luyện tập không chỉ trong các hoạt động chính khóa mà còn trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp như: tập nghi thức Đội, sinh hoạt ngoại khóa, chuẩn bị và tổ chức cắm trại, tham quan, luyện tập và thi đấu thể dục, thể thao, trò chơi tập thể, thi văn nghệ
 Để phương pháp luyện tập đạt hiệu quả, nhà giáo dục cần chú ý:
Chọn công việc theo mục đích từng giai đoạn giáo dục, có nội dung, phương pháp hoạt động hấp dẫn, phù hợp với năng lực, lứa tuổi, giới tính, tạo cảm giác thoải mái, hứng thú đối với học sinh.
Trong quá trình học sinh luyện tập cần theo dõi, uốn nắn kịp thời và tạo điều kiện tốt nhất cho các em hoàn thành công việc.
Khuyến khích học sinh tìm tòi những phương pháp hoạt động sáng tạo để hoàn thành công việc tốt nhất, nhanh nhất.
Luyện tập phải tuân theo một chế độ làm việc và sinh hoạt hợp lí, cần có nội qui hoạt động sinh hoạt tập thể.
Động viên kịp thời những học sinh có thành tích tốt.
2.2.3. Phương pháp tổ chức các hoạt động cho học sinh
 Tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động thực tiễn một cách đa dạng là phương pháp giáo dục nhằm gắn cuộc sống của trẻ em với thiên nhiên và cộng đồng xã hội, qua đó hình thành các kĩ năng hoạt động và thói quen, hành vi văn minh.
 Các hoạt động rất đa dạng có thể phân thành ba loại: hoạt động thiên nhiên, hoạt động xã hội và hoạt động vui chơi giải trí:
Trong quá trình hoạt động với thiên nhiên, các em được rèn luyện kĩ năng lao động, hình thành phương pháp tư duy biện chứng và thói quen tìm hiểu tự nhiên.
Trong quá trình hoạt động xã hội, các em được tiếp xúc làm việc với nhiều người, qua đó mà học tập được tinh thần, thái độ, phương pháp lao động, phong cách giao tiếp, ứng xử của mọi tầng lớp xã hội.
Trong hoạt động vui chơi giải trí, các em sẽ hình thành và phát triển tính sáng tạo, tinh thần tập thể và các kĩ năng tổ chức các hoạt động tập thể.
 Ở trường THCS có thể sử dụng các hình thức tổ chức hoạt động sau đây:
Tổ chức cho học sinh tiếp xúc với những người lao động, với các nhà khoa học, văn nghệ sĩđặc biệt là những người lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, cựu chiến binh
Tổ chức cho học sinh tham gia lao động công ích phục vụ các phong trào, các ngày lễ lớn ở địa phương, tham gia lao động sản xuất ở nông thôn trong ngày mùa.
Tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động văn hóa, các lễ hội truyền thống, các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp
Tổ chức cho học sinh tham quan danh lam thắng cảnh thiên nhiên, các di tích lịch sử, văn hóa, xã hội, nhà bảo tàng, khu triển lãm, các đơn vị sản xuất.
Tổ chức các trò chơi tập thể, trò chơi trí tuệ, văn hóa, văn nghệ.
Tổ chức các cuộc thi: khéo tay hay làm, nữ công gia chánh, tổ chức triển lãm các sản phẩm do các em làm ra.
Tổ chức cho các em quyên góp, ủng hộ “quỹ vì người nghèo”, “lá lành đùm lá rách”, “quỹ khuyến học”phong trào giúp đỡ gia đình thương binh, mẹ liệt sĩ, những người cao tuổi neo đơn
Để phương pháp giáo dục này có hiệu quả nhà giáo dục cần chú ý các điểm sau:
Phải xây dựng một chương trình kế hoạch công tác cho từng năm học với các nội dung và hình thức tổ chức hấp dẫn, thiết thực đối với học sinh.
Chuẩn bị các điều kiện vật chất và tinh thần phục vụ cho các hoạt động
Theo dõi, đôn đốc, giúp đỡ lớp thực hiện theo đúng kế hoạch chung.
Hằng năm tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm kế hoạch công tác giúp cho việc tổ chức các năm được tốt hơn.
2.3. Nhóm phương pháp điều chỉnh thái độ
 Nhóm phương pháp điều chỉnh thái độ nhằm tạo hưng phấn thúc đẩy tính tích cực hoạt động của học sinh hoặc điều chỉnh những sai lầm đã mắc phải.
 Nhóm này gồm các phương pháp sau đây:
2.3.1. Phương pháp nêu gương
 Nêu gương là phương pháp sử dụng những điển hình “ người tốt, việc tốt” để kích thích tính tích cực, tự giác của học sinh.
 Cơ chế tâm lí của phương pháp này là sự tác động qua lại giữa chủ thể và môi trường, tạo ra những ảnh hưởng tâm lí lành mạnh trong tập thể, còn gọi là “ bắt chước”. Tâm lí này có mặt ở mọi độ tuổi, được diễn ra dưới nhiều mức độ và có tính chất khác nhau, tùy thuộc vào trình độ nhận thức của con người, nhưng tất cả đều có ý nghĩa giáo dục tốt.
 Ở độ tuổi học sinh THCS, tính tích cực tự giác đang phát triển mạnh, khả năng phân tích, phê phán đã biểu hiện khá rõ nét. Học sinh luôn có ý thức lựa chọn những nhân vật điển hình để xây dựng thành “hình mẫu lí tưởng”, “ thần tượng” mà noi theo, chúng ta cần quan tâm uốn nắn dựa vào quĩ đạo giáo dục.
 Trong phương pháp nêu gương, mỗi “tấm gương” được sử dụng như một phương tiện trực quan. “Gương tốt cho hình ảnh tốt” chúng có tác dụng giáo dục rất lớn.
 Đối với học sinh trường THCS tấm gương tốt nhất đó là bạn bè cùng lớp, cùng trường, là thầy cô giáo đang trực tiếp dạy dỗ các em. Sau đó là hình tượng của các nhân vật văn học, nghệ thuật, cuộc đời, tuổi trẻ, sự nghiệp của các danh nhân văn hóa lịch sử, các nhà khoa họcĐặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương sáng ngời cho mọi thế hệ học sinh Việt Nam noi theo.
 Sự mẫu mực của cha mẹ, của các nhà giáo dục bao giờ cũng là những tấm gương sáng nhất. Sự gương mẫu của cha mẹ, của các nhà giáo dục thể hiện trong nhận thức, trong cuộc sống tình cảm và trong hành vi đối xử với những người xung quanh, trong gia đình, trong tập thể và ngoài xã hội. Giá trị tấm gương càng được tôn cao, khi các nhà giáo dục là những người thành đạt trong lao động sáng tạo, có uy tín trong tập thể, ở địa phương và ngoài xã hội.
 Trong quá trình thực hiện phương pháp nêu gương, đôi khi nhà giáo dục cũng sử dụng những “điển hình tiêu cực” “tấm gương phản diện” để học sinh phân tích, phê phán, đấu tranh nhằm hình thành “hàng rào miễn dịch” trước những hình ảnh tiêu cực của môi trường. Song khi sử dụng những tấm gương phản diện đòi hỏi nhà giáo dục phải phân tích triệt để những mặt tiêu cực, chỉ rõ tác hại của những hành vi không tốt để học sinh biết cách phòng ngừa.
 Để phương pháp nêu gương đạt hiệu quả, nhà giáo dục cần chú ý:
Lựa chọn điển hình phù hợp đặc điểm tâm lí lứa tuổi, tạo ra ấn tượng tốt, cảm xúc mạnh để kích thích thái độ, tình cảm lành mạnh ở học sinh.
Khi nêu gương cần giới thiệu sự kiện, phân tích nguyên nhân, ý nghĩa những bài học rút ra từ những tấm gương đó, nhằm giúp học sinh nhận thức đầy đủ ý nghĩa và có ý thức noi theo.
Cần khách quan, công bằng, đúng mực khi nêu gương học sinh trong lớp, không “ thổi phồng” thành tích cho nhân vật và tránh lặp lại nhiều lần, vì như thế có thể gây phản ứng đối lập giữa tập thể và cá nhân được nêu gương.
2.3.2. Phương pháp thi đua
 Thi đua là phương pháp tạo ra sự “cạnh tranh lành mạnh” trong tập thể, nhằm khích lệ sự cố gắng của tất cả các thành viên để giành lấy thắng lợi.
 Thi đua có ý nghĩa quan trọng, nó được thực hiện ngay trong các hoạt động hàng ngày, với một nhịp độ khẩn trương hơn mức bình thường, nó trở thành một biện pháp “tăng tốc” các hoạt động có chủ đích. Trong thi đua các hoạt động được phối hợp với nhau, làm cho mọi thành viên xích lại gần nhau hơn, tạo nên tình cảm tập thể và trở thành động lực thúc đẩy mọi người phấn đấu tích cực hơn nữa.
 Ở trường THCS thi đua thường tập trung vào các chủ đề học tập, văn nghệ, thể dục thể thaođược phát động và tổng kết nhân các ngày lễ kỉ niệm: ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, ngày Nhà giáo Việt Nam
 Khi tổ chức thi đua, nhà giáo dục cần chú ý:
Thi đua là một biện pháp kích thích tính tích cực hoạt động tập thể mang mục đích giáo dục, do vậy thi đua không phải là phong trào mang tính hình thức chiếu lệ, “ đánh trống bỏ dùi” có phát động nhưng không theo dõi tổng kết.
Thi đua phải có chủ điểm , có nội dung, có kiểm tra , điều chỉnh, có động viên khen thưởng kịp thời.
Nên phát động thi đua vào những thời điểm có ý nghĩa lịch sử của dân tộc, của ngành giáo dục, của các đoàn thể trong năm học.
Sau mỗi đợt thi đua cần rút kinh nghiệm, tìm ra những nhân tố tích cực, phân tích nguyên nhân và những bài học bổ ích.
Thi đua phải được sự hưởng ứng tích cực của toàn thể học sinh và của các đoàn thể.
2.3.3. Phương pháp khen thưởng
 Khen thưởng là phương pháp biểu

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_nang_cao_vai_tro_cua_giao_vien_chu_nhiem_o.doc