Báo cáo biện pháp Nâng cao tính sáng tạo trong hoạt động nhóm của học sinh môn Tin học lớp 8

Công nghệ thông tin ngày một đi sâu vào tiềm thức của mỗi người trong xã hội, nó là một nghành đang còn mới nhưng nó luôn đứng đầu trong mọi hoạt động của xã hội hiện nay. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách đầu tư và phát triển về ứng dụng công nghệ thông tin như:

“Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ GD&ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục đã chỉ rõ: Nâng cao nhận thức về vai trò của Tin học: ứng dụng và phát triển Tin học trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục”. Vì thế nhà nước đã có chủ trương từ đây sẽ phổ cập Tin học cho các bậc học từ Tiểu học, THCS, THPT, Cao đẳng, Đại học. và nó là một bộ môn không thể thiếu được, góp phần cùng với các bộ môn khác giáo dục nhân cách, làm cho nội dung học tập ở trường phổ thông có tính hoàn thiện làm thăng bằng, hài hòa các hoạt động học tập của học sinh.

 

doc 24 trang Chí Tường 21/08/2023 2860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Nâng cao tính sáng tạo trong hoạt động nhóm của học sinh môn Tin học lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Nâng cao tính sáng tạo trong hoạt động nhóm của học sinh môn Tin học lớp 8

Báo cáo biện pháp Nâng cao tính sáng tạo trong hoạt động nhóm của học sinh môn Tin học lớp 8
 trước khi có nhận xét của nhóm khác và sau cùng là của giáo viên, vấn đề đó đương nhiên đã tạo sự chú ý và cố gắng tìm hiểu ở mỗi thành viên và việc học tập do vậy sẽ tích cực hơn. Do đó, việc học tập sẽ mang lại kết quả tốt hơn, tránh được học sinh chỉ biết ngồi nghe giáo viên một cách thụ động và dĩ nhiên trong trường hợp như thế kết quả học tập sẽ không mang lại như ý muốn.
 Khi nhóm thảo luận hoạt động dưới sự giám sát của giáo viên, những thói quen xấu như nói chuyện riêng, thiếu tập trung, đùa giỡn,ít nhiều sẽ bị loại trừ. Động lực trong nhóm sẽ được phát huy và những động lực tiềm tàng ở mỗi cá nhân có dịp được bộc lộ.
 Trong khi thảo luận nhóm, việc giao lưu giữa các học sinh đương nhiên diễn ra. Thông thường thì trong một nhóm trình độ học sinh không khi nào tuyệt đối bằng nhau, trong nhóm chắc chắn sẽ có những học sinh khá hơn những học sinh còn lại. Đây cũng chính là cơ hội để cho học sinh học tập lẫn nhau (học thầy không tày học bạn) và khi được giáo viên tổng kết giải đáp học sinh sẽ hiểu bài hơn, nhớ lâu hơn và vì vậy việc học tập mang lại kết quả tốt hơn.
Như vậy, phương pháp thảo luận nhóm một mặt vừa chú trọng phát huy tính tích cực cao, tính chủ động, sáng tạo của học sinh; mặt khác lại chú trọng sự phối hợp, hợp tác giữa các học sinh trong quá trình học tập, cần kết hợp năng lực cạnh tranh và năng lực hợp tác ở học sinh. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên cần phải chú trọng xây dựng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm, xây dựng vị thế của mỗi học sinh trong nhóm và trong lớp, hình thành kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Nội dung:
Phương pháp thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học đã phát huy được tính tích cực, tự giác của người học. Phương pháp này đã tạo được một môi trường học tập thuận lợi mà ở đó trí tuệ tập thể đã được phát huy cũng như vai trò hoạt động xã hội của cá nhân được trải nghiệm. 
Các bước tiến hành thảo luận nhóm:
Thứ nhất, xác định rõ mục tiêu của cuộc thảo luận. 
Thứ hai, xây dựng nội dung thảo luận. 
Thứ ba, xây dựng cấu trúc tiến trình thảo luận từng vấn đề. 
Thứ tư, dự kiến hệ thống câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi gợi mở sẽ được sử dụng trong quá trình thảo luận. 
Thứ năm, kế hoạch thảo luận cần thông báo cho học sinh biết trước. 
Một số yêu cầu khi tiến hành thảo luận nhóm:
Chia nội dung bài dạy thành những vấn đề nhỏ có liên kết với nhau. 
Chia lớp học thành nhiều nhóm nhỏ. 
Cử ra một nhóm trưởng và một thư ký trong mỗi nhóm. 
Giao nhiệm vụ cho từng cá nhân, các nhóm. 
Trong mỗi chủ đề thảo luận, nên thực hiện theo quy trình chung của thảo luận. 
Các sản phẩm được giới thiệu và trình bày trước nhóm, lớp. 
Đảm bảo yếu tố cạnh tranh và thi đua trong các nhóm. 
Đảm bảo yếu tố thông tin phản hồi từ các nhóm.
Giáo viên đóng vai trò trọng tài, cố vấn, kiểm tra, kết luận. 
Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm: 
Đối với học sinh: 
Hoạt động nhóm là một phương pháp rất tốt về tư duy logic, về cách đào sâu và trau rồi kiến thức, giúp cho học sinh bước đầu biết nêu và giải quyết vấn đề khoa học, biết phân tích, đánh giá, nhận xét những nhận định của người khác và bảo vệ ý kiến của mình với những suy luận có căn cứ. Qua thảo luận nhóm giúp học sinh hình thành giao tiếp, tổ chức lãnh đạo, khả năng tư duy, tinh thần hợp tác, trao đổi, giúp đỡ, hoà nhập cộng đồng. 
Đối với giáo viên: 
Phương pháp hoạt động nhóm giúp giáo viên có điều kiện bổ sung và mở rộng những kiến thức, giúp giáo viên đánh giá sự tiếp thu của học sinh và trình độ tư duy của các em.. Thảo luận nhóm còn là nơi áp dụng và kiểm nghiệm tính đúng đắn của những phương pháp và phương thức giảng dạy và học tập có tính đặc thù của môn học, cũng như đối với phần, chương, mục của bài giảng.
Ưu điểm: 
Hs được học cách cộng thác trên nhiều phương diện.
Hs được nêu quan điểm của mình, được nghe quan điểm của bạn khác trong nhóm, trong lớp; được trao đổi, bàn luận về các ý kiến khác nhau và đưa ra lời giải tối ưu cho nhiệm vụ được giao cho nhóm. Qua cách học đó, kiến thức của hs sẽ bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học, tư duy phê phán của hs được rèn luyện và phát triển.
Các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới và học hỏi lẫn nhau. Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm, được tham gia trao đổi, trình bày vấn đề nêu ra. Hs hào hứng khi có sự đóng góp của mình vào thành công chung của cả lớp.
Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên hs, đặc biệt là những em nhút nhát, trở nên bạo dạn hơn; các em học được trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp hs dễ hòa nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt.
Vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của hs thêm phong phú; kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của hs được phát triển.
Hạn chế:
Một số học sinh do nhút nhát hoặc vì một lí do nào đó không tham gia vào hoạt động chung cuả nhóm, nên nếu giáo viên không phân công hợp lí có thể dẫn đến tình trạng chỉ có một vài hs khá tham gia còn đa số hs khác không hoạt động.
Ý kiến các nhóm có thể quá phân tán hoặc mâu thuẫn gay gắt với nhau (nhất là đối với các môn Khoa học xã hội).
Thời gian có thể bị kéo dài
Với những lớp có sĩ số đông hoặc lớp học chật hẹp, bàn ghế khó di chuyển thì khó tổ chức hoạt động nhóm. Khi tranh luận, dễ dẫn tới lớp ồn ào, ảnh hưởng đến các lớp khác.
Biện pháp thực hiện:
Có rất nhiều cách thức khác nhau để giáo viên có thể nâng cao hiệu quả của những tiết thảo luận, nếu như giáo viên là người có tâm huyết, được đào tạo tốt, nắm chắc quy trình và có biện pháp tổ chức thảo luận hữu hiệu thì người dạy có thể phát huy tối đa mặt tích cực của phương pháp thảo luận nhóm, nó là phương pháp có nhiều ưu việt nó đã phát huy được tính tích cực, tự giác của người học và khả năng thực thi tương đối cao so với các phương pháp khác. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp này trong giảng dạy môn tin học, theo tôi, giáo viên cần phải:
Thứ nhất: Nắm được những nguyên tắc trong việc xây dựng quy trình thảo luận nhóm, bao gồm:
Nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.
Nguyên tắc đảm bảo hài hòa giữa các hình thức dạy và học.
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống.
Nguyên tắc đảm bảo tính thực tế.
Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện. 
Thứ hai: Xây dựng quy trình thực hiện phương pháp thảo luận nhóm.
Theo tôi quy trình này là một hệ thống bao gồm 3 giai đoạn và 10 bước, được thể hiện ở sơ đồ dưới đây: 
 (Sơ đồ:Tích hợp quá trình dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm)
Bước
Giáo viên
Giai đoạn
Học sinh
1
Xác định mục tiêu bài học
Lập kế hoạch thảo luận
Xác định nhiệm vụ bài học
2
Xây dựng, thiết kế nội dung bài học
Nghiên cứu nội dung bài học
3
Lựa chọn phương pháp, phương tiện
Lựa chọn phương pháp, phương tiện
4
Thành lập nhóm, giao nhiệm vụ
Thực hiện nội dung thảo luận
Gia nhập nhóm, nhận nhiệm vụ, tự nghiên cứu
5
Tổ chức thảo luận theo cặp
Hợp tác với bạn cùng bàn
6
Tổ chức thảo luận trong nhóm
Hợp tác với bạn trong nhóm
7
Tổ chức thảo luận giữa các nhóm
Tham gia thảo luận lớp
8
Trọng tài, cố vấn, kiểm tra
Tổng kết, đánh giá
Tự kiểm tra, đánh giá
9
Tổng kết, nhận xét, đánh giá chung
Tóm tắt rút ra kết luận, kinh nghiệm
10
Giao nhiệm vụ cho bài học mới
Tiếp nhận nhiệm vụ của bài học
Thứ ba: Chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho hoạt động nhóm:
Phương pháp thảo luận nhóm thành công hay không còn tùy thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Nếu giáo viên chuẩn bị tốt, dự kiến được tình huống xảy ra và có những biện pháp xử lí kịp thời cũng như có sự hợp tác từ học sinh thì phương pháp thảo luận nhóm sẽ mang lại kết quả cao. Vì vậy, trước khi lên lớp, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
Mục tiêu của hoạt động nhóm bài học này là gì?
Những vấn đề thảo luận trong nhóm là những vấn đề gì?
Nên chia lớp ra làm mấy nhóm?
Hoạt động này có phù hợp với số lượng học sinh trong nhóm không?
Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian?
Tất cả học sinh tham gia có thu được lợi ích từ hoạt động này không?
Thiết bị dạy học cần dùng là những thiết bị gì?
Dự kiến tình huống xảy ra và cách giải quyết.
Học sinh phải chuẩn bị những gì?
Soạn giáo án cho phù hợp với việc thảo luận nhóm.
Chuẩn bị những phương án dự bị
Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần nhắc nhở học sinh chuẩn bị trước các nội dung sau:
Thuộc bài cũ và chuẩn trước bị bài mới.
Làm những bài tập của giờ lần trước (nếu có)
Chuẩn bị những thứ cần thiết mà giáo viên đã dặn dò
Một số giải pháp:
Việc phân chia nhóm thường dựa trên: số lượng học sinh của lớp học, đặc điểm học sinh và chủ đề bài học. Cách chia nhóm như thế nào là hợp lí: có thể theo một tiêu chuẩn nào đó của bài học hay của giáo viên và cũng có thể hoàn toàn ngẫu nhiên hoặc có thể theo số điểm danh, theo giới tính, theo vị trí ngồi
 Giáo viên giao câu hỏi cho từng nhóm (có thể chiếu lên máy chiếu, viết lên bảng phụ, viết vào giấy giao cho từng nhóm) hướng dẫn học sinh cách thực hiện, phân bố thời gian hợp lí, giải đáp thắc mắc của học sinh trước khi chính thức đi vào hoạt động, đồng thời ghi lại chủ đề và chỉ dẫn lên bảng, máy chiếu hay thiết bị khác
 Trong một tiết dạy giáo viên có thể chọn một trong số các cách chia nhóm sau đây (tuỳ theo đặc điểm của lớp và và nội dung bài học). Bản thân tôi đã áp dụng linh hoạt tùy theo bài theo các cách như sau:
Cách 1: Chia nhóm nhỏ cùng thảo luận:
 Với cách này có thể chia theo chỗ ngồi 2 bàn quay lại thành một nhóm nhỏ (khoảng 6-8 học sinh) để thảo luận về một khía cạnh xoay quanh một vấn đề nào đó. Sau thời gian thảo luận mỗi nhóm nhỏ cử một thành viên trình bày ý kiến của cả nhóm cho cả lớp nghe (giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày ý kiến của nhóm sau không được lặp lại ý của nhóm trước đã trình bày).
Ưu điểm của cách chia nhóm nhỏ cùng thảo luận: Học sinh được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nghiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung.
Ví dụ: Trong bài 9 SGK tin học 8 trang 73 “LÀM VIỆC VỚI DÃY SỐ”; mục 1 “Dãy số và biến mảng”. Giáo viên cho các nhóm cùng thảo luận nội dung: Dữ liệu kiểu mảng: 
Giáo viên có thể chỉ định bất kì nhóm trình bày ý kiến nhưng nhóm sau không lặp lại ý của nhóm trước sau đó giáo viên nhận xét, kết luận.
Cách 2: Chia nhóm theo tổ:
Nhóm này được xây dựng dựa trên các tổ đã được chia sẵn trên lớp để thảo luận các vấn đề giáo viên giao cho các nhóm (tùy theo đặc điểm của lớp mà có các nhóm tương ứng, thông thường trong lớp học có 4 tổ giáo viên sẽ chia làm 4 nhóm để thảo luận). Sau khi các nhóm thảo luận sẽ cử đại diện trình ý kiến của nhóm cho cả lớp, sau đó các nhóm khác nhận xét bổ sung ý kiến và cuối cùng giáo viên nhận xét kết luận ý kiến của từng nhóm.
Ví dụ: Trong bài tập và thực hành 2 SGK trang 27 “VIẾT CHƯƠNG TRÌNH ĐỂ TÍNH TOÁN”. Cách thực hiện giáo viên chia lớp làm 4 nhóm, mỗi nhóm một phương hướng để thảo luận.
Nhóm 1: Luyện tập gõ các biểu thức số học trong chương trình Pascal?
Nhóm 2: Sử dụng các phép chia lấy phần nguyên và phép chia lấy phần dư với số nguyên?
Nhóm 3: Tìm hiểu cách in dữ liệu ra màn hình?
Nhóm 4: Xác định kết quả các phép so sánh?
Cách 3. Chia nhóm theo sở thích:
Cách này thực hiện dựa trên việc các học sinh tự do lựa chọn để tạo thành một nhóm và giáo viên sẽ giao nhiệm vụ cho các nhóm thực hiện trong một thời gian nhất định (có thể quan sát, tìm hiểu một vấn đề nào đó), kết quả sẽ được đại diện của mỗi nhóm trình bày trong giờ học sau.
Ví dụ: Trước khi học bài thực hành 1 SGK trang 15 “LÀM QUEN VỚI TURBO PASCAL”. Giáo viên chia nhóm HS nghiên cứu, tìm hiểu các nội dung trước, sau đó vào tiết học các nhóm cử đại diện trình bày ý kiến.
Nhóm 1: Tìm hiểu cách khởi động và thoát khỏi Turbo pascal.
Nhóm 2: Soạn thảo, lưu, dịch và chạy một chương trình.
Nhóm 3: Chỉnh sửa chương trình và nhận biết một số lỗi.
Nhóm 4: In ra màn hình lời chào với tên của em.
Cách 4: Chia nhóm đánh giá:
Một nhóm chịu trách nhiệm thảo luận một chủ đề nào đó và một nhóm khác có trách nhiệm phê bình, nhận xét và đánh giá ý kiến trình bày của nhóm kia.
Ví dụ: Trong bài thực hành 3 SGK trang 34 “KHAI BÁO VÀ SỬ DỤNG BIẾN”; ở mục “Khai báo và sử dụng biến trong chương trình”. Để làm rõ và sử biến trong chương trình giáo viên cho các nhóm thảo luận các vấn đề sau:
Nhóm 1: Tìm hiểu các kiểu dữ liệu trong Pascal?
Nhóm 2: Cách khai báo biến với các kiểu dữ liệu? 
Nhóm 3: Nhận xét, bổ sung cho nhóm 1 khi nhóm 1 trình bày ý của mình xong. Sau đó giáo viên đánh giá và kết luận cho 2 nhóm.
Nhóm 4: Nhận xét, bổ sung cho nhóm 2 khi nhóm 2 trình bày ý của mình xong. Sau đó giáo viên đánh giá và kết luận cho 2 nhóm.
Cách 5: Giảng – Viết - Thảo luận:
Giáo viên cho học sinh trả lời câu hỏi bằng cách đưa ra các phương án lựa chọn và yêu cầu học sinh giải thích tại sao phải chọn phương án đó (cách này thực hiện sau mỗi bài học), sau khi mỗi cá nhân xử lí các câu hỏi thì so sánh với các học sinh khác. Sau đó, giáo viên tổ chức thảo luận để kiểm tra các câu trả lời hợp lí.
Ví dụ: Sau khi tìm hiểu được ý nghĩa của việc khai báo và sử dụng biến Để kiểm tra lại khả năng tiếp thu bài của học sinh, giáo viên cho học sinh trả lời câu hỏi ngắn?
a. Real;
b. Integer;
c. Char;
d. String;
Một số cách chia nhóm khi học Thực hành, lý thuyết tại phòng Tin học, có sử dụng hệ thống kết nối quản lý Netop school.
Có nhiều cách để thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp dụng một tiêu chí duy nhất trong cả năm học. Có thể theo sổ điểm danh, theo màu sắc, theo biểu tượng, theo giới tính, theo vị trí ngồi, hoặc có cùng sự lựa chọn,... Bảng sau đây trình bày 10 cách theo các tiêu chí khác nhau.
Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ, tùy theo nhiệm vụ. Tuy nhiên, nhóm thường từ 3-5 học sinh là phù hợp.
Tiêu chí
Cách thực hiện. Ưu, nhược điểm
1. Các nhóm gồm những người tự nguyện, chung mối quan tâm
Ưu điểm: Đối với Hs thì đây là cách dễ chịu nhất để thành lập nhóm, đảm bảo công việc thành công nhanh nhất.
Nhược điểm: Dễ tạo sự tách biệt giữa các nhóm trong lớp, vì vậy cách tạo nhóm như thế này không nên là khả năng duy nhất.
2. Các nhóm ngẫu nhiên
Bằng cách đếm số, phát thẻ, gắp thăm, sắp xếp theo màu sắc,...
Ưu điểm: Các nhóm luôn luôn mới mẻ sẽ đảm bảo là tất cả các hs đều có thể học tập chung nhóm với tất cả các hs khác.
Nhược điểm: Nguy cơ có trục trặc tăng cao, hs phải sớm làm quen với việc đó để thấy rằng cách lập nhóm như vậy là bình thường.
3. Nhóm ghép hình
Xé nhỏ một bức tranh hoặc các tờ tài liệu cần xử lí, các hs được phát mẫu xé nhỏ, những hs ghép thành bức tranh hoặc tờ tài liệu đó sẽ tạo thành nhóm.
Ưu điểm: Cách tạo nhóm kiểu vui chơi, không gây ra sự đối địch, đối kháng
Nhược điểm: Cần một tí chi phí để chuẩn bị và cần nhiều thời gian hơn để tạo lập nhóm.
4. Các nhóm với những đặc điểm chung
Ví dụ: Tất cả những hs cùng sinh ra trong mùa đông, mùa xuân, mùa hè hoặc mùa thu sẽ tạo thành nhóm.
Ưu điểm: Tạo lập nhóm một cách độc đáo, tạo ra niềm vui cho hs có thể biết nhau rõ hơn.
Nhược điểm: Cách làm này mất đi tính độc đáo nếu được sử dụng thường xuyên.
5. Các nhóm cố định trong một thời gian dài
Các nhóm được duy trì trong một số tuần hoặc một số tháng, các nhóm này thậm chí có thể được đặt tên riêng.
Ưu điểm: Cách làm này đã được chứng tỏ tốt trong những nhóm học tập có nhiều vấn đề
Nhược điểm: Sau khi đã quen nhau một thời gian dài thì việc lập các nhóm mới sẽ khó khăn.
6. Nhóm có hs khá giỏi để hỗ trợ hs yếu kém
Những hs khá giỏi trong lớp cùng luyện tập với các hs yếu hơn và đảm nhận nhiệm vụ của người hướng dẫn
Ưu điểm: Tất cả đều được lợi. Những hs khá giỏi đảm nhận trách nhiệm, những hs yếu kém được giúp đỡ
Nhược điểm: Ngoài việc mất thời gian thì chỉ có ít nhược điểm, trừ phi những hs khá giỏi hướng dẫn sai.
7. Phân chia theo năng lực học tập khác nhau
Những Hs yếu hơn sẽ xử lí các bài tập cơ bản, những hs đặc biệt giỏi sẽ nhận được thêm những bài tập bổ sung.
Ưu điểm: Hs có thể xác định mục đích của mình. Ví dụ, ai bị điểm kém trong môn Toán thì có thể tập trung vào một số ít bài tập
Nhược điểm: Cách làm này dẫn đến kết quả là nhóm học tập cảm thấy bị chia thành những Hs thông minh và những hs kém
8. Phân chia theo các dạng học tập
Được áp dụng thường xuyên khi học tập theo tình huống, những hs thích học tập với hình ảnh, ẩm thanh hoặc biểu tưởng sẽ nhận được những bài tập tương ứng.
Ưu điểm: Hs sẽ biết các em thuộc dạng học tập như thế nào?
Nhược điểm: Hs chỉ học những gì mình thích và bỏ qua những nội dung khác.
9. Nhóm với các bài tập khác nhau
Ví dụ, trong khuôn khổ một dự án, một số hs sẽ khảo sát một xí nghiệp sản xuất, một số khác khảo sát cơ sở chăm sóc xã hội,...
Ưu điểm: Tạo điều kiện học tập theo kinh nghiệm đối với những gì đặc biệt quan tâm.
Nhược điểm: Thường chỉ có thể áp dụng trong khuôn khổ một dự án lớn.
10. Phân chia hs nam và nữ
Ưu điểm: Có thể thích hợp nếu học về những chủ đề đặc trưng cho hs nam và nữ, ví dụ trong giảng dạy về tình dục, chủ đề lựa chọn nghề nghiệp,...
Nhược điểm: Nếu bị lạm dụng có thể dẫn đến mất bình đẳng nam nữ.
(Tiết học trong giờ Tin học)
Về nội dung và thời gian thảo luận:
Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
Thời gian thảo luận có thể căn cứ vào nội dung bài học cũng như đặc điểm của lớp học.
Vai trò của giáo viên và nhóm trưởng:
Vai trò của giáo viên:
Thứ nhất: Khi học sinh tiến hành thảo luận, giáo viên chuyển từ vị trí người hướng dẫn sang vị trí người giám sát. Nhiệm vụ của giáo viên lúc này là nhận biết tiến trình hoạt động của các nhóm từ đó có thể có những can thiệp kịp thời để mang lại hiệu quả cao. Muốn vậy, khi giám sát hoạt động nhóm giáo viên cần:
Chú ý đến hoạt động mà giáo viên yêu cầu lớp thực hiện, không được tranh thủ làm việc riêng khi học sinh đang thảo luận. Giáo viên cần phải di chuyển, quan sát và giám sát mọi hoạt động của lớp.
Chú ý lắng nghe quá trình trao đổi của học sinh trong nhóm. Từ đó, giáo viên có thể có những phát hiện thú vị và khả năng đặc biệt của từng học sinh, hướng thảo luận của từng nhóm để điều chỉnh kịp thời.
Quan sát để xem có học sinh nào “đứng bên lề” hoạt động không? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào không khí chung của nhóm.
Thứ hai: Trong tiết học, giáo viên phải chú ý nhận biết bầu không khí xem các nhóm hoạt động “thật” hay “giả”.
Thứ ba: Giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời để khi vấn đề giáo viên đặt ra lại là nguyên nhân gây nên sự thay đổi không khí hoạt động của nhóm. Nếu vấn đề quá khó, học sinh không đủ khả năng giải quyết, hoặc ngược lại, nếu vấn đề quá dễ sẽ khiến học sinh không có gì phải làm. Cả hai trường hợp này đều có thể làm giảm đi độ “nóng” của bầu không khí trong lớp.
Thứ tư: Giáo viên cần khen ngợi, khuyến khích và gợi ý cho học sinh trong quá trình thảo luận nếu thật sự cần thiết.
Thứ năm: Giáo viên định rõ lượng thời gian hoạt động nhóm cụ thể, và nhắc thời gian để các nhóm hoàn thành phần hoạt động của mình đúng thời gian quy định.
Thứ sáu: Giáo viên cần đi vòng quanh các nhóm và lắng nghe ý kiến học sinh trong suốt buổi thảo luận nhóm nhỏ. Thỉnh thoảng cũng rất hữu ích nếu giáo viên xen lời bình luận vào giữa cuộc thảo luận của một nhóm. Đối với những vấn đề nhạy cảm thường có những tình huống mà học sinh sẽ cảm thấy bối rối, ngại ngùng khi phải nói trước mặt giáo viên, trong trường hợp này giáo viên có thể quyết định tránh không xen vào hoạt động của nhóm khi thảo luận.
Vai trò của nhóm trưởng:
Thứ nhất: Phải có khả năng tổ chức, phân công nhiệm vụ cho các thành viên, bố trí chỗ ngồi cho phù hợp, hướng dẫn các thành viên thảo luận đúng với nội dung đã giao.
Thứ hai: Phải biết linh hoạt và nhạy bén, có khả năng điều động tất cả các thành viên trong nhóm tham gia tích cực vào thảo luận; theo dõi, quan sát từng người để có biện pháp điều chỉnh kịp thời; lắng nghe ý kiế

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_nang_cao_tinh_sang_tao_trong_hoat_dong_nho.doc