Báo cáo biện pháp Một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần văn học dân gian cấp trung học cơ sở

Nâng cao chất lượng dạy học là vấn đề cấp thiết của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta đã và đang có những đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp dạy học. Chất lượng dạy học sẽ cao khi ta kích thích được hứng thú, nhu cầu, sở thích và khả năng độc lập, tích cực tư duy của HS. Để làm được điều đó, bên cạnh việc đổi mới nội dung và PPDH thì sự phối hợp các hình thức tổ chức dạy học là một việc làm cần thiết. Trong nhà trường hiện nay, điều này vẫn còn chưa được quan tâm một cách thích đáng.

Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học, một dạng hoạt động của HS tiến hành ngoài giờ lên lớp chính thức, ngoài phạm vi quy định của chương trình bộ môn nhằm hỗ trợ cho chương trình nội khóa, góp phần hoàn thiện và phát triển nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của HS. Thực tiễn các nhà trường trong những năm gần đây cho thấy: HĐNK văn học nói riêng và các môn học khác nói chung ít được tổ chức, lãnh đạo nhà trường và GV bộ môn đầu tư thích đáng.

Hoạt động ngoại khoá văn học theo quan niệm đổi mới PPDH là một hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả, nối liền bục giảng với thực tiễn đời sống, mở rộng, kéo dài trường suy tưởng - thẩm định về bài học cho HS. Hoạt động này phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, đồng thời có thể kiểm tra lại chất lượng dạy học trong giờ chính khoá. Hoạt động ngoại khoá Văn học càng cần thiết và bổ ích hơn khi được áp dụng vào quá trình dạy học phần Văn học dân gian ở THCS vì những lí do sau:

Thứ nhất: Ngoại khoá văn học dân gian góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian (tính tập thể, tính truyền miệng, gắn với sinh hoạt xã hội ) - điều mà GV và HS rất khó thực hiện trong giờ chính khoá do hạn chế về điều kiện và thời gian giảng dạy. Nói cách khác, đặc trưng cơ bản của văn học dân gian sẽ được soi sáng và cảm nhận một cách tự giác trực cảm hơn trong điều kiện tổ chức ngoại khóa. Trong so sánh với dạy học văn học viết, điều này lại càng trở nên rõ ràng hơn.

Thứ hai: Ngoại khoá văn học dân gian cho phép chúng ta khai thác tác phẩm Văn học dân gian ở nhiều góc độ, thoả mãn nhu cầu làm "sống lại" tác phẩm Văn học dân gian trong môi trường diễn xướng, thông qua các hình thức trình diễn bằng lời - nhạc - vũ. Ngoại khóa văn học dân gian chính là một hình thức “trả tác phẩm văn học” trở về đời sống đích thực của chính nó, dẫn dắt học sinh hòa mình vào chính đời sống của tác phẩm.

 

doc 37 trang Chí Tường 21/08/2023 3980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần văn học dân gian cấp trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần văn học dân gian cấp trung học cơ sở

Báo cáo biện pháp Một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần văn học dân gian cấp trung học cơ sở
 đời sống cộng đồng.
* Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam
VHDG Việt Nam cũng như VHDG của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng, hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống thể loại của VHDG thường có:
- Thần thoại: xuất hiện từ thời nguyên thủy; là tác phẩm tự sự dân gian thường kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa của con người thời cổ đại.
- Sử thi: xuất hiện khi có hình thức sơ khai của Nhà nước, khi dần dần có sự kết hợp giữa các thị tộc, bộ lạc; Sử thi là tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn từ có vần, nhịp; xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân, một tộc người thời cổ đại.
- Truyền thuyết: là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân một vùng.
- Truyện cổ tích: xuất hiện khi có chế độ phong kiến thống trị ở nước ta; là tác phẩm tự sự dân gian mà hình tượng và cốt truyện được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.
- Truyện ngụ ngôn: là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặc chẽ thông qua các ẩn dụ (phần lớn là hình tượng loài vật) để kể về những sự việc liên quan đến con người, từ đó nêu lên những bài học kinh nghiệm về cuộc sống hoặc về triết lí nhân sinh. Và như vậy truyện ngụ ngôn có hai phần: phần cụ thể là truyện kể, phần trừu tượng là ý niệm rút ra từ truyện đó.
- Truyện cười: là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán và có ý nghĩa đấu tranh xã hội mạnh mẽ.
- Truyện thơ: là những tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, giàu chất trữ tình, phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội bị tước đoạt.
- Tục ngữ: là những câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của nhân dân.
- Câu đố: là những bài văn vần hoặc những câu nói thường có vần, mô tả đối tượng đố bằng những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống.
- Ca dao: là những lời thơ trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.
- Vè: là tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần phát triển nhất trong thời kì cận đại; vè có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện thời sự của làng, của vùng quê, thậm chí là của cả nước.
- Chèo: là tác phẩm sân khấu dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để vừa ca ngợi những tấm gương đạo đức, vừa phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội. Ngoài chèo, sân khấu dân gian còn có những hình thức khác như: tuồng dân gian, múa rối, các trò diễn mang tích truyện.
3.2 Văn học dân gian trong chương trình
* Trong chương trình Ngữ văn THCS, phần VHDG có tất cả 22 bài, được phân phối trong 2 khối lớp là lớp 6 và lớp 7 gồm 26 tiết học. Cụ thể:
Tiết
Tên bài dạy
Lớp 6
1
Đọc thêm Con Rồng, cháu Tiên
2
HDĐT: Bánh chưng, bánh giầy
5
Thánh Gióng
9
Sơn Tinh, Thủy Tinh
13 – 14
HDĐT: Sự tích Hồ Gươm
21
Thạch Sanh
25 – 26
Em bé thông minh
34 – 35
HDĐT: Ông lão đánh cá và con cá vàng
39
Ếch ngồi đáy giếng
40 
Thầy bói xem voi
41
Ôn tập truyện ngụ ngôn
45
HDĐT: Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng
51
Treo biển
HDĐT: Lợn cưới, áo mới
54 – 55
Ôn tập truyện dân gian
Lớp 7
9
Những câu hát về tình cảm gia đình
10
Những câu hát về tình yêu quê hương đất nước
13
Những câu hát than thân
14
Những câu hát châm biếm
73
Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất
74
Tục ngữ về con người và xã hội
118 – 119
HDĐT: Quan âm Thị Kính
Trích đoạn: Nỗi oan hại chồng
II. THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA VĂN HỌC DÂN GIAN Ở TRƯỜNG THCS
1. Tình hình dạy và học phần văn học dân gian ở trường THCS
Hiện nay, việc dạy – học môn Ngữ văn vẫn còn rất nhiều bất cập, phần lớn học sinh không yêu thích học môn văn như trước kia. Trong giới hạn của đề tài, tôi tập trung nghiên cứu thực trạng việc dạy và học phần Văn học dân gian lớp 6 và lớp 7. Từ thực tiễn giảng dạy tại trường THCS tôi nhận thấy khó khăn lớn nhất trong việc giảng dạy văn học dân gian là: các tác phẩm văn học trong chương trình đều đã quá quen thuộc nên dễ gây nhàm chán; thời gian để có thể tiếp thu kiến thức không đủ, cách dạy của GV không thu hút 
Nguyên nhân của những khó khăn có nhiều, song trước hết có lẽ vì dạy văn và học văn là công việc khó. Người dạy cũng như người học trước hết phải có niềm say mê, yêu thích văn chương, có tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc, thêm vào đó là một vốn tri thức phong phú, vốn tiếng Việt dồi dào... Đó là những yêu cầu khắt khe, mang tính đặc thù. Mặt khác, xu hướng nghề nghiệp hiện nay thiên về các ngành khoa học tự nhiên, đó cũng là một nguyên nhân khiến học sinh ngày càng thờ ơ với bộ môn Ngữ văn. Đặc biệt, hình thức dạy học truyền thống lấy thuyết giảng làm chính đã trở nên đơn điệu, không phù hợp với tâm lý con người hiện đại; điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hứng thú học tập, khả năng sáng tạo của học sinh. Vì vậy mà rất nhiều HS không thấy hứng thú đối với môn Văn nói chung, với VHDG nói riêng và đặc biệt VHDG sẽ không thu hút, hấp dẫn được HS nếu không được đổi mới phương pháp truyền đạt, không gắn với thực tiễn sinh động.
Như vậy, tình hình dạy học VHDG còn nhiều hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong giảng dạy VHDG phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Và khi được hỏi với những khó khăn như thế, liệu việc tổ chức HĐNK văn học có phù hợp hay không, thì các GV đều đồng ý cho rằng HĐNK có thể khắc phục được những hạn chế, đồng thời còn mang lại hiệu quả cao hơn trong giảng dạy bộ môn.
2. Tình hình tổ chức HĐNK VHDG ở trường THCS
Cũng như việc tổ chức HĐNK văn học, công tác tổ chức HĐNK văn học dân gian vẫn chưa được quan tâm nhiều. Các trường vẫn tổ chức HĐNK văn học nhưng không hẳn chú trọng vào phần VHDG hoặc không tổ chức mà nội dung chỉ có phần văn học dân gian. Khi phỏng vấn một số GV, tất cả đều cho rằng tổ chức HĐNK văn học dân gian rất hay nhưng không phải đơn giản, nội dung hoạt động phải phong phú, hình thức phải thật hấp dẫn. Về việc gợi ý hình thức tổ chức HĐNK VHDG, các GV cũng đưa ra rất nhiều hình thức hấp dẫn như: Hội thảo văn học, Giao lưu văn học, Câu lạc bộ văn học và HS thì có đến 80% thích hình thức tham quan. Con số này cho thấy một thực trạng tổ chức HĐNK văn học dân gian là hình thức tổ chức chưa thật đa dạng và thu hút HS. 
Nói chung các ý kiến đa dạng, đều có lí do giải thích riêng và đều khá hợp lí, vì thế trong tổ chức nên tùy thuộc vào nội dung cũng như mục đích mà điều chỉnh quy mô và hình thức cho phù hợp.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH
1. Diễn kịch
Diễn kịch là một hình thức HĐNK mang tính hiệu quả cao trong việc giảng dạy VHDG. Để hoạt động này đạt hiệu quả cao cần phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng cả về phía GV và HS. 
* Bước thứ nhất: Xác định được mục tiêu và nội dung của vở kịch, sau đó là việc hình thành kịch bản và phân vai cụ thể.
* Bước thứ hai: Thực hiện chương trình
Vào chương trình HĐNK VHDG, HS sẽ diễn những vở kịch đã được chuẩn bị từ trước. GV sẽ phân công công việc cho một HS quay video những vở kịch trình diễn.
* Bước thứ ba: Tổng kết
GV sẽ cho trình chiếu lại những vở kịch đã được trình diễn, sau đó nêu ra một số câu hỏi nhận xét về vai diễn cũng như về nội dung vở kịch. HS đưa ra ý kiến của mình đồng thời trả lời câu hỏi về tác phẩm được dựng thành kịch. Một số loại câu hỏi mà GV sẽ đưa ra như sau:
+ Nêu nhận xét về vai diễn: ngôn ngữ, hành động
+ Câu hỏi về nội dung và nghệ thuật tác phẩm
+ Yêu cầu HS nào có thể diễn lại hành động một nhân vật trong đó.
Trong chương trình VHDG, đóng kịch phù hợp với các thể loại và tương ứng với các bài học về truyện dân gian (lớp 6) và vở chèo Quan âm Thị Kính (lớp 7) 
2. Tổ chức trò chơi
2.1. Game show truyền hình
Trên truyền hình có rất nhiều trò chơi thú vị và hấp dẫn, tuy nhiên nên chọn một chương trình phù hợp về nội dung, hình thức với HS. Nội dung là kiến thức về VHDG trong chương trình và kiến thức mở rộng. Hình thức trò chơi nên phù hợp với lứa tuổi HS, dễ thực hiện. GV sẽ phải chuần bị câu hỏi và đưa ra luật chơi, cùng HS thống nhất. 
* Đi tìm triệu phú
Lấy ý tưởng từ trò chơi truyền hình “Ai là triệu phú”, GV có thể tổ chức một chương trình tương tự như vậy trong đó nội dung là nội dung dạy học phần văn học dân gian. GV sẽ phải chuẩn bị những câu hỏi kèm theo các đáp án để lựa chọn.
* Đối mặt
- Luật chơi:
+ MC lần lượt đưa ra 2 câu hỏi gồm nhiều đáp án trả lời. Mỗi người đặt cược số đáp án mà mình có thể trả lời. Ai đặt cược nhiều hơn sẽ có quyền trả lời câu hỏi. Nếu có thể trả lời đủ số đáp án đã đặt cược thì sẽ giành quyền chiến thắng, ngược lại nểu trả lời sai hoặc không đủ số đáp án mà mình đã đặt cược thì sẽ thua.
+ Sau khi trả lời 2 câu hỏi trên mà 2 người có kết quả hòa 1-1 thì sẽ phải trả lời câu hỏi theo phương thức đối kháng (theo luật bóng bàn, trả lời luân phiên). Ai trụ lại đến cuối cùng sẽ thì là người thắng cuộc.
* Đuổi hình bắt chữ
- Luật chơi:
Có 2 người chơi hoặc 2 đội chơi, giành quyền trả lời bằng cách bấm chuông. Nhiệm vụ của người chơi là nhìn vào một hình vẽ và liên tưởng đến một từ, cụm từ, một câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao, tên một bài hát 
Ví dụ: 
- Hình một cô gái, một một cánh đồng lúa đang thì con gái. Đây là bài ca dao nói về vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của người phụ nữ.
→ “Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, bát ngát mênh mông
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai” 
Có rất nhiều trò chơi truyền hình thu hút mà người dạy có thể dựa vào hình thức tổ chức đó để áp dụng với kiến thức dạy học của mình. Trên đây chỉ là là ba trong số rất nhiều trò chơi truyền hình khác mà người GV có thể áp dụng trong tổ chức hoạt động ngoại khóa văn học dân gian, đặc biệt phù hợp với phần ca dao, dân ca.
2.2. Đố vui văn học
Trong văn học dân gian, những câu đố văn học mang lại hiệu quả rất cao trong dạy học, vừa kích thích được trí tò mò của người học đồng thời tạo không khí thi đua học tập sôi nổi trong lớp. Từ những câu thơ gợi ý về nội dung cần đố, HS sẽ dựa vào những chi tiết gợi ý đó để đoán ra đáp án. Nội dung câu đố có thể là kiến thức HS được học trong chương trình, có thể là những kiến thức mở rộng.
Hình thức đố vui cũng khá đa dạng: thi theo đội với hình thức nhấn chuông trả lời, thi theo lớp với dạng trắc nghiệm, thi theo dạng bốc thăm lên trả lời câu hỏi mỗi hình thức đều có những mặt ưu điểm nhất định.
3. Các hoạt động khác
3.1. Tham quan, dã ngoại
Trong chương trình Văn học dân gian, GV có thể đưa HS đi tham quan một số nơi có liên quan đến bài học.Tuy nhiên, tùy từng bài, từng địa phương HS đang theo học, GV sẽ tổ chức những chuyến tham quan đến địa danh gần địa phương đó nhất.
Hoạt động tham quan, dã ngoại không chỉ bó hẹp trong việc tìm hiểu kiến thức trong chương trình, GV có thể chọn nhiều địa điểm khác để HS có thể mở rộng kiến thức về văn học dân gian. Ví dụ, nếu HS ở Hà Nội thì có thể ra Hồ Gươm, tham quan các di tích: Tháp Rùa, Đảo Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc, Tháp Bút, Đài Nghiên, Tháp Hòa Phong, Đền Bà Kiệu, Nhà Thủy TạTại đây, HS sẽ được nghe truyền thuyết Rùa thần đòi gươm, tìm hiểu về cuộc chiến tranh dân tộc chống quân Minh (1417 – 1427) do Lê Lợi lãnh đạo, về cái tên Hồ Gươm-Hoàn Kiếm sau này. 
Đến tham quan Hồ Gươm, GV không chỉ kể lại sự tích mà các em phần nào đã được biết, bên cạnh đó GV có thể mở rộng kiến thức cho HS, hướng dẫn HS tìm hiểu thêm về câu chuyện xung quanh sự tích này. Cùng trong nội thành Hà Nội, GV có thể đưa HS tham quam những đền thờ thờ “Tứ bất tử”. Trong những truyền thuyết liên quan tới tín ngưỡng thờ phụng đã đi vào tâm khảm của người Việt Nam thì “Tứ bất tử” được coi là một tín ngưỡng đặc biệt. Đặc biệt, truyền thuyết này có nhiều điều liên quan tới địa danh và con người Hà Nội. “Tứ bất tử” là một huyền thoại về việc nhân dân ta tôn vinh và thờ phụng “bốn vị thánh bất tử”: Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đền thờ Đức Thánh Tản Sơn Tinh nằm trên địa bàn hai xã Minh Quang và Ba Vì, thuộc huyện Ba Vì, gồm ba ngôi đền (đền Thượng, đền Trung, đền Hạ). Đến nơi đây, HS sẽ được nghe chuyện kể về thần núi Tản Viên Sơn Tinh, về cuộc chiến tranh giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh; về việc Sơn Tinh giúp vua Hùng đánh giặc, về việc ông đi khắp mọi nơi dạy dân làm ra lửa, làm ruộng, mở hội, săn bắn, luyện võ, dệt lụa Khu di tích lịch sử đền Sóc là nơi gắn với truyền thuyết anh hùng Gióng bay về trời sau khi đánh thắng giặc Ân. Đây là bài ca hào hùng nhất về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam. Những con người bình dị, lớn lên từ nghèo khó, nhưng khi đất nước lâm nguy thì sẵn sàng xả thân, hy sinh vì nghĩa lớn. Truyền thuyết sử thi giàu chất anh hùng ca này vẫn còn lưu giữ bằng các di tích rất phong phú tại làng Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội. Khu di tích này được Vua Lê Đại Hành cho xây dựng tại khu vực núi Sóc, xã Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội và được xếp hạng di tích quốc gia năm 1962. Hiện tại, khu di tích gồm: đền Trình, đền Mẫu, chùa Non Nước, chùa Đại Bi, đền Thượng, hòn đá Trồng, tượng đài thánh Gióng và các lăng bia đá ghi lại lịch sử và lễ hội đền Sóc. Đền thờ Chử Đồng Tử được lập tại thôn Chử Xá, Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội.
3.2. Tham dự biểu diễn 
Tổ chức một buổi xem biểu diễn cho HS không phải là điều đơn giản. GV sẽ liên hệ trước với các đoàn biểu diễn nghệ thuật để đưa HS đến dự, sau đó lên lịch tham dự, đưa ra lượng HS tham dự, chuẩn bị xe đưa đón, phân công công việc cho các GV đi cùng và các nhóm HS để tránh lộn xộn khi đến tham dự chương trình.
Những chương trình mà HS tham dự có thể là một vở chèo (Lưu Bình Dương Lễ, Nghêu sò ốc hến, Quan Âm Thị Kính, Tuần Ty Đào Huế, Từ Thức gặp tiên), vở tuồng (Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Diễn Võ Đình, Ngoại tổ dâng đầu), vở kịch 
3.3. Gặp gỡ, giao lưu với nghệ sĩ, nhà hoạt động sân khấu và nhà nghiên cứu
Để HS hiểu sâu hơn, rộng hơn về văn học dân gian Việt Nam, GV có thể phối hợp với nhà trường mời một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ hoặc nghệ sĩ biểu diễn về nghệ thuật dân gian để học sinh giao lưu, tìm hiểu sâu hơn về văn học dân gian.
IV. HIỆU QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP
Sau đây là kịch bản buổi hoạt động ngoại khóa về văn học dân gian cấp Trung học cơ sở mà trường tôi đã thực hiện. Tại trường THCS nơi tôi công tác, những học sinh yêu thích văn học thường tham gia học Câu lạc bộ môn học em yêu thích, tham gia sáng tác văn, thơ. Vì vậy, hoạt động ngoại khóa về văn học dân gian này có thể lấy nòng cốt là các học sinh trong “Câu lạc bộ Văn học” của nhà trường. Cụ thể về hoạt động ngoại khóa về văn học dân gian như sau:
- Nội dung hoạt động: kiến thức VHDG trong chương trình và ngoài chương trình, tập trung vào ba mảng chính: truyện cổ dân gian, thơ ca dân gian và sân khấu dân gian.
- Hình thức hoạt động: sinh hoạt “Câu lạc bộ Văn học dân gian”
- Thời lượng tiến hành thực nghiệm: 150 phút
- Địa điểm diễn ra chương trình: hội trường của trường.
Tôi chọn hình thức sinh hoạt “Câu lạc bộ Văn học dân gian” để tổ chức HĐNK vì : Đây là một hình thức sinh hoạt tập thể, lôi cuốn được nhiều HS ở các khối lớp, các ban khác nhau cùng tham gia, khiến Văn học không chỉ là một môn học mà còn là một sinh hoạt văn hoá tinh thần vui tươi bổ ích. Một hình thức khác của câu lạc bộ thơ văn là tổ chức ngoại khoá với hình thức Sân khấu hoá tác phẩm văn học. HS được GV bộ môn hướng dẫn tự chọn tác phẩm, tự chuyển sang kịch bản, sau đó biểu diễn dưới hình thức hát, múa, kịch. Nhờ vậy việc học văn trở nên nhẹ nhàng, thú vị hơn. Những em có năng khiếu phát huy được vai trò cuả mình, em viết kịch bản, em biểu diễn, em hoá trang Ai cũng có đóng góp, khiến HS vừa hào hứng vừa có tinh thần tập thể và ý thức thi đua. Hơn nữa, với phần Văn học dân gian thì hình thức này lại càng phù hợp, triển khai tốt hơn nội dung. Trong phần thực nghiệm của mình, sở dĩ tôi chọn hình thức này cũng bởi vì đây là hình thức tổ chức có thể áp dụng được nhiều hình thức khác trong đó như: diễn kịch, tổ chức trò chơi, giao lưu giữa các nghệ sĩ và HS.
1. Chuẩn bị
Để tổ chức thành công một buổi HĐNK cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung kiến thức, kịch bản chương trình cũng như các thành phần tham gia hoạt động
* Về đối tượng:
- Về phía Giáo viên:
+ Cố vấn cho chương trình: BGH nhà trường, các thầy cô có kinh nghiệm trong tổ chức hoạt động ngoại khoá, các thầy cô tâm huyết với chuyên ngành VHDG.
+ GV họp thống nhất nội dung và hình thức chương trình, lên kịch bản, chọn người dẫn chương trình: 1 HS nam, 1 HS nữ có khả năng giao tiếp tốt, làm chủ được các tình huống trên sân khấu. 
+ Những thành viên tham gia chuẩn bị cho sân khấu, âm thanh, ánh sáng, đạo cụ..:HS, GV kết hợp với Đoàn trường và Chi đoàn.
+ Khách mời (những người sẽ lên sân khấu giao lưu, trả lời các câu hỏi, thắc mắc của HS): những GV văn có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề. Mỗi thầy cô có thế mạnh ở một thể loại VHDG, sẽ trao đổi nhanh gọn, mang tính chất gợi mở những tâm huyết của mình trên sân khấu. 
- Về phía HS: 
+ GV lựa chọn 4 đội thi cho phần “Thi tìm hiểu về VHDG”. Những yêu cầu về đối tượng:
¬ HS phải có năng khiếu về môn Văn, có niềm say mê thực sự đối với văn học và văn hóa dân gian. 
¬ Những HS có cách cảm nhận sâu sắc về hình tượng văn học.
¬ HS phải có khả năng giao tiếp tốt, không lúng túng trước đám đông, tích cực, chủ động trình bày ý kiến của mình.
+ Những HS tham gia hoạt động diễn xướng (biểu diễn văn nghệ):
¬ Gồm các tiết mục văn nghệ: GV lựa chọn HS trên cơ sở các tiết mục văn nghệ xen kẽ trong chương trình: Đi cấy, Cây trúc xinh, Ru em, Bèo dạt mây trôi
* Về kịch bản chương trình
Trước khi thực hiện, GV phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết về dự kiến chương trình sẽ diễn ra. Kịch bản chương trình phải dựa trên đặc điểm nội dung đã xác định trước. Trong kịch bản, phải dự kiến đề phòng những tình huống có thể diễn ra trên sân khấu. GV sẽ hướng dẫn các MC cụ thể để các em có thể hình dung kịch bản một cách rõ ràng nhất nhằm tăng tính chủ động, sáng tạo cho một chương trình ngoại khoá mở về VHDG
Chương trình ngoại khóa gồm bốn phần:
+ Phân 1: Chào hỏi
+ Phần 2: Trả lời câu hỏi kiểm tra kiến thức về văn học dân gian thông qua phân thi “Ô chữ bí mật”
+ Phần 3: Thi diễn xướng các tác phẩm văn học dân gian.
+ Phần 4: Tài năng
Xen kẽ trong chương trình là các tiết mục văn nghệ, thưởng thức một số tiết mục hát, múa về ca dao, dân ca, chuyển thể truyện cười sang lĩnh vực sân khấu do HS trình diễn.
* Kinh phí cho buổi sinh hoạt Câu lạc bộ VHDG bao gồm các vấn đề cần chi tiêu cụ thể như sau: Thuê phục trang; Phần thưởng cho HS tham gia những câu hỏi giao lưu với khán giả và phần thi tìm hiểu cho các đội; Đạo cụ và bài trí sân khấu như (phông xốp, chõng tre, hoa, ...); Những tài liệu và thiết bị liên quan (nếu có).
* Chuẩn bị văn nghệ
Những tiết mục tham gia văn nghệ là những tiết mục dân

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_mot_so_hinh_thuc_to_chuc_hoat_dong_ngoai_k.doc