Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của Giáo dục- Đào tạo trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là:

 Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho tất cả các cấp học, bậc học.

 Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy học.Tổ chức, quản lý tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng nhà nước.

 Để thực hiện thành công Nghị Quyết Đảng các cấp và cuộc vận động lớn của ngành, quản lý cũng như toàn thể cán bộ, giáo viên là người đi đầu trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Đánh giá đúng thực chất chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Việc đánh giá trung thực chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ giúp chúng ta nhìn thẳng vào sự thật, có cơ sở khoa học để từ đó tuyên truyền, vận động, phối hợp với phụ huynh nâng cao chất lượng cuộc sống giúp trẻ phát triển cân đối, hài hoà cả thể chất lẫn tinh thần, thông minh, nhanh nhẹn.

 Trong trường mầm non người quản lý về mảng chăm sóc nuôi dưỡng có vai trò vị trí hết sức quan trọng: là người chịu trách nhiệm chính về toàn bộ việc chăm sóc nuôi dưỡng trong nhà trường; thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý về số lượng, chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, chỉ đạo giáo viên nhân viên thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo mục tiêu đào tạo.

 

doc 23 trang Chí Tường 20/08/2023 3660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non

Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non
hiều cao
Cân nặng bình thường
Suy dinh dưỡng độ 1
Suy dinh dưỡng độ 2
Cao bình thường
Thấp còi độ 1
Thấp còi
 độ 2
Nhà trẻ
68
62
06
0
64
4
0
Mẫu giáo
743
714
29
0
728
15
0
Cộng:
811
776
35
0
792
20
0
Tỷ lệ:%
100
95,6
4,4
0
97,6
2,4
0
Đánh giá phân tích.
 Nhìn lên bảng trên cho ta thấy về chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong trường vẫn có nhiều trẻ suy dinh dưỡng, béo phì .Với chức năng là một quản lý công tác chăm sóc nuôi dưỡng bán trú trong nhà trường tôi tham mưu với ban giám hiệu đưa nội dung tuyên truyền các tài liệu về vệ sinh dinh dưỡng và an toàn thực phẩm lồng ghép trong các cuộc họp, trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ, đối với các cháu suy dinh dưỡng nhà trường phối hợp với các phụ huynh tăng cường nguồn dinh dưỡng trong các bữa ăn hàng ngày của trẻ để trẻ phát triển tốt. 
 Mặt khác tuyên truyền qua tranh dinh dưỡng và an toàn thực phẩm của các cơ quan chức năng cung cấp.
 Đọc tuyên truyền về dinh dưỡng hợp lý và vệ sinh an toàn thực phẩm trên loa phát thanh của trường.
 Bên cạnh đó chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng vào chương trình giảng dạy theo các chủ đề.
 Qua một số kết quả khảo sát đầu năm của trẻ, bản thân tôi rất trăn trở làm thế nào để nâng cao về chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường, từ đó tôi đưa ra một số giải pháp khắc phục giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, béo phì của trẻ.
3. Các biện pháp tiến hành.
3.1. Xây dựng kế hoạnh chỉ đạo tốt các hoạt động nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường.
 Để thực hiện được tốt một nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra thì trước tiên phải có kế hoạch cụ thể chính vì vậy việc xây dựng kế hoạch là rất quan trọng. Ngay từ đầu năm học tôi dựa vào tình hình thực tế của trường, lớp, phân tích những thuận lợi, khó khăn để xây dựng kế hoạch nuôi dưỡng phân công rõ nhiệm vụ của từng bộ phận đặc biệt chú ý với các đồng chí y tế, kế toán và giáo viên: 
 + Với y tế: 
 . Xây dựng kế hoạch hoạt động y tế học đường, quản lý hồ sơ sức khỏe trẻ, phối hợp theo dõi sức khỏe trẻ trong ngày.
 . Phối hợp khám sức khỏe trẻ 2 lần/năm, tổ chức cân trẻ 4 lần/năm, đo 2 lần/năm vào biểu đồ tăng trưởng, phần mềm sức khỏe, thông báo kết quả tới các lớp.
 . Tổ chức tập huấn cho GVNV cách phòng chống TNTT, cách sơ cứu một số tai nạn thông thường hay sảy ra (2 lần/năm).
 . Tuyên truyền phòng chống dịch bệnh qua bài viết, loa phát thanh, họp phụ huynh, thường xuyên kiểm tra công tác an toàn, công tác vệ sinh trong nhà trường.
 . Phối hợp với các lớp đảm bảo công tác vệ sinh, thông thoáng phòng nhóm, có lịch vệ sinh đồ dùng, sát khuẩn vv; giám sát nhà bếp đảm bảo quy trình vệ sinh ATTP, nguồn nước.
 + Kế toán:
 . Cập nhật sổ sách (sổ thu và thanh toán, nhật kí thu và bàn giao, quỹ tiền mặt, chi tiết chi) chứng từ thu chi, đảm bảo tài chính công khai. 
 . Kết hợp với nhân viên y tế xây dựng thực đơn theo mùa, bảng định lượng thực phẩm sống, chín.
 . Giám sát việc giao nhận thực phẩm, chia ăn, kiểm tra trên bảng định lượng chia và thực tế định xuất cân thức ăn của trẻ .
 . Căn cứ vào phát sinh trong ngày, kế toán lập phiếu thu - chi có duyệt chi của Hiệu trưởng sau đó chuyển thủ quỹ vào sổ thanh toán cho các đối tượng liên quan trực tiếp.
 . Quyết toán tiền ăn cuối tháng, cuối năm học, hết hè thanh toán kịp thời với phụ huynh.
 + Giáo viên: 
 . Thực hiện nghiêm túc quy chế chăm sóc nuôi dưỡng trẻ
 . Đến sớm hơn 15 phút so với quy định, thông thoáng phòng nhóm, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi, sẵn sàng đón trẻ.
 . Giám sát giao nhận thực phẩm, báo số ăn theo quy định, kí nhận định lượng xuất ăn của trẻ
 . Thực hiện đúng tổ chức giờ ăn, giờ ngủ cho trẻ, cho trẻ uống đủ nước, đảm bảo an toàn cho trẻ. 
 Không những thế tôi còn đưa ra các biện pháp chỉ đạo cụ thể của từng tháng, từng học kỳ như tổ chức cho 100% giáo viên nhân viên thi quy chế chăm sóc nuôi dưỡng trẻ vào tháng 10 của năm học 2017-2018 gồm những nội dung:
 + thi lý thuyết trắc nghiệm.
 + Thi thực hành:
 . Đối với giáo viên: Thi tổ chức giờ ăn, ngủ cho trẻ.
 . Đối với nhân viên nuôi dưỡng : Chấm dây chuyền làm việc và chế biến món ăn tự chọn hoặc chế biến 10 xuất quà chiều cho trẻ.
 . Với nhân viên: Thi xây dựng thực đơn và phối kết hợp với giáo viên trên lớp tổ chức giờ ăn trưa cho trẻ.
 Tôi lên kế hoạch mua sắm các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác bán trú. Cuối năm học tôi đã cho kiểm tra lại các đồ dùng bếp loại bỏ những đồ dùng hỏng, lên danh sách những đồ dùng cần mua bổ sung hoặc thay thế như thìa nhỏ, bát to, sửa chữa tủ sấy bát, máy thái hoa quả Các đồ dùng trên lớp như cốc, khăn mặt, khay đựng thìa cũng được mua bổ sung và mua mới ngay đầu năm học. 
 Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, không có ngộ độc thực phẩm xảy ra trong nhà trường, tôi còn lên kế hoạch cho 100% CBGV tập huấn về phòng ngừa tai nạn thương tích cho trẻ trong quá trình tổ chức các hoạt động do nhân viên y tế trường phổ biến. Ngoài ra tôi còn tham mưu cho đồng chí hiệu trưởng mời cán bộ y tế Quận về tập huấn cho cán bộ giáo viên nhân viên trong trường về vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ vào thàng 10 của năm học 2017-2018. 
 Để công việc đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao thì làm tốt công tác phân công trách nhiệm từng người, từng khâu là rất quan trọng góp phần thực hiện có hiệu quả việc nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ đề ra các chỉ tiêu cần đạt về số lượng, chất lượng, nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Với đội ngũ nhân viên bếp tôi đã phân công rõ người nấu chính, người nấu phụ, người vệ sinh bếp, người giao nhận thực phẩm hằng ngàyvì vậy mọi người cứ dựa vào lịch phân công mà thực hiện.
 Vào đầu năm học (tháng 8) nhà trường tổ chức họp Ban giám hiệu nhà trường và Ban đại diện cha mẹ trẻ thống nhất về chế độ ăn uống, mức thu tiền ăn của trẻ/ngày, về xây dựng thực đơn. Sau đó mời các nhà cung cấp thực phẩm (Rau, thịt, gạo, trứng, sữa..) đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm về ký hợp đồng. Nguồn thực phẩm cung cấp phải đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý theo thị trường. Ban giám hiệu nhà trường đã công khai ra bảng công khai của trường danh sách các nhà cung ứng thực phẩm để phụ huynh biết và có ý kiến phản hồi.
 Trong kế hoạch đầu năm học, tôi đưa nội dung vệ sinh dinh dưỡng và an toàn thực phẩm vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non lồng ghép trong các giờ học hoặc dạy trẻ kỹ năng vệ sinh các hoạt động chiều, hàng ngày trước khi ăn, trong khi ăn, sau khi ăn. Tăng cường giám sát công tác vệ sinh nói chung và vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng.
 Chỉ đạo các lớp thực hiện đúng quy chế nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ. Thực hiện tốt các chuyên đề, đổi mới phương pháp giảng dạy tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm vào các giờ học, các hoạt động khác trong ngày.
 Làm tốt công tác tuyên truyền tới các bậc phụ huynh về công tác thực hiện chuyên đề.
 Tôi lên kế hoạch vệ sinh hàng tuần vào chiều thứ sáu toàn trường cả lớp học và bếp ăn cũng như sân vườn. Nhằm thực hiện tốt các biện pháp phòng nhiễm bẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh nơi chế biến. Nhà bếp luôn luôn sạch sẽ, không để bụi bẩn, có đủ dụng cụ cho nhà bếp chế biến và đồ dùng ăn uống cho trẻ. 
 Ngoài ra trong nhà bếp tôi còn làm bảng tuyên truyền 10 nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm cho mọi người thực hiện. Các biểu bảng khác như nội quy vệ sinh, quy trình giao nhận thực phẩm, bảng phân công nhiệm vụ từng người trong bếp, các khẩu hiệu như “Làm đâu gọn đấy, đứng dậy sạch ngay” được treo ngay ngắn và treo tại nơi mọi người dễ nhìn thấy nhất trong bếp. 
 Hàng ngày trước khi bếp hoạt động, nhà trường có kế hoạch phân công cụ thể nhân viên nuôi dưỡng thay phiên nhau làm thông thoáng phòng cho khí lưu thông, kiểm tra hệ thống điện, nước, chất đốt trước khi hoạt động. 
 Thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, các công văn hướng dẫn nhiệm vụ của Phòng Giáo dục và Đào tạo và của ngành học Mầm non về các hoạt động nuôi dưỡng và chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
 Toàn bộ kế hoạch nuôi dưỡng, kế hoạch phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ, các văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, các công văn hướng dẫn của cấp trên đều được tôi để công khai tại bảng công khai của nhà trường.
3.2. Bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, phòng bệnh cho đội ngũ giáo viên, nhân viên.
 Để thực hiện được tốt chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non thì ngoài việc ban giám hiệu đưa ra kế hoạch cụ thể, có biện pháp chỉ đạo sát sao thì đội ngũ giáo viên và nhân viên là người trực tiếp thực hiện đóng một vai trò quan trọng, quyết định. 
 Hàng năm vào kỳ nghỉ hè phòng giáo dục mở lớp tập huấn cho cán bộ, giáo viên trong những nội dung quan trọng về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non, chú trọng vấn đề kiến thức thực hành dinh dưỡng thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh chế biến và vệ sinh trong ăn uống hàng ngày nên tôi đã tạo điều kiện cho các giáo viên được đi tập huấn. Sau đó tôi sẽ dùng những kiến thức đó cùng với các giáo viên được đi tập huấn, tổ chức tập huấn lại cho toàn bộ các giáo viên trong trường về công tác chăm sóc, giáo dục trẻ như tôi đã triển khai công tác An toàn thực phẩm, tổ chúc phong trào thi đua “An toàn thực phẩm” ngành giáo dục và đào tạo năm học 2017-2018. Chương trình tập huấn về công tác chăm sóc nuôi dưỡng có đưa món xào vào thực đơn của trẻ cũng được tôi triển khai tới 100% các giáo viên, nhân viên trong trường. Tù đó các giáo viên, nhân viên có thể thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ năm học của ngành, của trường đề ra, giúp ban giám hiệu kịp thời tôn vinh, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phòng trào thi đua An toàn thực phẩm ngành giáo dục. Và đưa ra các biện pháp làm việc hiệu quả, tiết kiệm sức lao động ở nhân viên bếp khi có thêm món xào, các giáo viên có cách cho trẻ ăn hợp lý.
 Trước khi tổ chức cán bộ giáo viên học tập, thi “quy chế nuôi dạy trẻ” vào hai học kỳ cả về lý thuyết và thực hành, tôi định hướng các tài liệu cho giáo viên tham khảo như Quy chế nuôi dạy trẻ, kế hoạch năm học của phòng, của trường, tài liệu về vệ sinh an toàn thực phẩm của y tế quận.
 Khi tôi đi chấm thi các lớp về quy chế nuôi dạy trẻ, tôi chọn ra các lớp có quy trình tổ chức giờ ăn tốt để cho các lớp kiến tập, học tập áp dụng vào lớp mình một cách linh hoạt.
 Với đội ngũ nhân viên bếp, ngoài việc chấm thi dây chuyền chế biến vào đợt thi quy chế thì tôi cũng thường xuyên xuống bếp kiểm tra góp ý kịp thời để dây chuyền bếp làm việc hiệu quả, khoa học và tiết kiệm sức lao động. Nhắc nhở bếp vệ sinh các khu vực bếp, xung quanh bếp sạch sẽ và sắp xếp các đồ dùng bếp gọn gàng, ngăn nắp. 
 Tôi cũng sắp xếp, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học tập các lớp trên chuẩn các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn hè, các lớp bồi dưỡng chuyên đề, tham gia học bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ cho giáo viên mầm non, các lớp học nâng cao tay nghề nuôi dưỡng của nhân viên.
 Tôi có kế hoạch dự giờ đột suất và báo trước quy chế giờ ăn để nâng cao tay nghề tổ chức bữa ăn bán trú của giáo viên, giáo viên có ý thức rèn kỹ năng vệ sinh cho trẻ trước, trong và sau khi ăn tạo nề nếp, thói quen cho trẻ cũng như lớp học.
 Hàng tuần các khối họp rút kinh ngiệm về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, sau đó tôi tổng hợp để hàng tháng có họp chuyên môn để rút kinh nghiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ của tòan trường. 
Họp chuyên môn rút kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng trẻ
 Không những vậy tôi mời cán bộ y tế quận về tập huấn phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ, cách loại bỏ các nguy cơ mất an toàn cho trẻ, tập huấn về an toàn thực phẩm trong trường mầm non. Sau đó tôi cho giáo viên viết bài thu hoạch nộp lại cho ban giám hiệu.
 Tập huấn cho giáo viên về kiến thức chăm sóc trẻ qua những buổi họp sinh hoạt chuyên môn hàng tháng.
 Trong những đợt cao điểm chiến dịch của sở, của y tế quận, của phòng giáo dục về phòng chống dịch bệnh Sốt xuất huyết, tay chân miệng. Tôi đã cho y tế trường tập huấn cho toàn bộ các giáo viên trong trường về nhận thức đặc điểm của bệnh, cách phòng tránh, dinh dưỡng hợp lý cho trẻ, cách tuyên truyền tới phụ huynh cùng nhà trường phòng tránh dịch bệnh như thế nào cho hiệu quả. Y tế sẽ phát tài liệu cho giáo viên đọc tham khảo về tình hình dịch bệnh và cài vào bảng tuyên truyền của phụ huynh cho phụ huynh tham khảo.
 y tế tập huấn phòng tránh dịch bệnh và tai nạn thương tích cho trẻ
 Bên cạnh đó phân công giáo viên có tay nghề vững kèm giúp đỡ giáo viên còn hạn chế về chuyên môn, những cô nuôi giỏi kèm những cô nuôi còn chưa có kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. 
3.3. Lựa chọn ký kết các hợp đồng thực phẩm:
 Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường học thì khâu lựa chọn và ký kết các hợp đồng thực phẩm là vô cùng quan trọng. Vì có ký kết đuwọc với các công ty cung ứng thực phẩm an toàn thì mới mới có lượng thực phẩm tươi ngon, hợp vệ sinh cho chế biến món ăn cho trẻ. Và nếu có xảy ra nhứng trường hợp đáng tiếc thì bên cung ứng sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm. 
 Do vậy để làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, chúng tôi đã chọn những cơ sở tin cậy để tiến hành ký hợp đồng mua thực phẩm, các cơ sở hợp đồng phải đáp ứng yêu cầu vệ sinh, đã được y tế Quận kiểm duyệt. Hợp đồng nêu rõ yêu cầu về chất lượng vệ sinh thực phẩm, giá cả, thời gian giao nhận và điều khoản thi hành có xác nhận của hai bên. Trong một loạt các danh sách công ty được phép cung ứng thực phẩm cho trường mầm non, chúng tôi đã xem xét nghiên cứu và lựa chọn những công ty uy tín, chất lượng, đã làm được lâu năm.
 Trước khi ký kết hợp đồng, tôi, đồng chí hiệu trưởng và bếp trưởng đã nhiều lần đi khảo sát tình hình thực tế tại cơ sở cung cấp thực phẩm. Như xuống tận vườn rau tại Vân Nội Đông Anh xem quy trình sản xuất rau, củ an toàn, cách họ thu hoạch đóng gói để nhà cung cấp mang đi tiêu thụ. Đến tận cơ sở 12A, Quỳnh Mai, Hai Bà Trưng Hà Nội bên công ty thực phẩm Minh Thoa để khảo sát quá trình nhận hàng, đóng hàng, phân phối các sản phẩm tôm, thịt, cá tới các cơ sở.
Thăm vườn rau tại xã Vân Nội, Đông Anh, Hà Nội
 Với cơ sở cung cấp sữa chua, chúng tôi chọn công ty thương mại và dịch vụ Thạch Bàn chuyên cung cấp các sản phẩm sữa của Vinamilk.
 Với sản phẩm sữa đậu nành tự chế biến tại trường, chúng tôi có công thức chế biến theo một quy trình nghiêm ngặt do y tế quận cấp phép, đảm bảo sữa cung cấp cho các con bổ dưỡng, không chất bảo quản.
 Chất lượng thực phẩm từ khâu vận chuyển đến khâu giao nhận thực phẩm tại bếp ăn của nhà trường phải đủ thành phần, cung cấp phải đảm bảo kịp thời, đảm bảo số lượng và chất lượng tươi ngon, sạch sẽ, không bị dập nát, không héo hoặc ôi thiu, dụng cụ đựng phải sạch sẽ và có nắp đậy. Bên A kiểm nghiệm thực phẩm trước khi nhận hàng. Nếu có trường hợp thực phẩm không đảm bảo chất lượng, có thể gây ra ngộ độc, thì bên B sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm với bên A.
 Ngoài việc lấy thực phẩm từ nhà cung cấp, tận dụng diện tích vườn trường, tôi đã tham mưu đề xuất với đồng chí hiệu trưởng cho xây dựng những luống rau sạch đưa vào thực đơn hàng tuần cho trẻ. Để chăm được vườn rau này thì các cô nhà bếp và các giáo viên trên lớp cùng với trẻ thực hiện. Các buổi hoạt động ngoài trời trẻ không những rất hứng thú khi được chăm sóc vườn rau mà khi thu hoạch cho các cháu ăn, các cháu ăn cũng ngon miệng, hào hứng hơn với sản phẩm mình chăm sóc. Vườn rau sạch của trường đã phát huy hiệu quả, một tuần một lần các cháu được ăn rau sạch của trường một lần đảm bảo nguồn thực phẩm tại chỗ an toàn.
Vườn rau sạch nhà trường
3.4. Thực hiện tốt công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm, chế biến thực phẩm, đảm bảo bếp một chiều:
 Khi đã ký kết hợp đồng với bên cung cấp thực phẩm là một yêu cầu quan trọng nhưng khi tiếp nhận thực phẩm là một quy trình nghiêm ngặt mà phải thực hiện hàng ngày để kịp thời phát hiện ra thực phẩm không đạt chất lượng để trả lại bên cung ứng đổi thực phẩm khác đưa vào chế biến thức ăn cho trẻ.
 Tôi phân công lịch giao nhận thực phẩm tại bảng phân công trong bếp. Hàng ngày gồm có các thành phần: bên giao hàng và bên nhà trường gồm kế toán, y tế hoặc thanh tra, giáo viên trên lớp, đại diện ban giám hiệu và bếp chính với đủ sổ giao nhận thực phẩm và cân, rổ, chậu thau.
 Khi giao nhận thực phẩm tôi đã chỉ đạo đổ hết thực phẩm từ trong bao, túi ra thau chậu và kiểm tra kỹ lưỡng từng mặt hàng từ sờ, ngửi, cảm quan bằng mắt để lựa chọn thực phẩm tươi ngon, không dập nát, ôi thiu. Với những thực phẩm khô, bao gói tôi cho kiểm tra hạn sử dụng trên bao bì. Từng loại thực phẩm sẽ được ghi vào sổ với số cân đầy đủ, tình trạng thực phẩm ra sao.
 Khi thực phẩm đảm bảo chất lượng, các bên liên quan sẽ ký đầy đủ vào sổ giao nhận thực phẩm.
 Các nhân viên nhà bếp khi đến làm việc tuyệt đối không để đồng dùng cá nhân tại bếp và phải mặc trang phục lao động đi ủng, mặc đồng phục của trường, đội mũ, đeo khẩu trang. 
 Tôi đã chỉ đạo cô nuôi và nhân viên nhà bếp cần lưu ý: tuyệt đối không mua thực phẩm không rõ nguồn gốc, hạn dùng hoặc quá hạn sử dụng, không mua thực phẩm có sẵn và thực phẩm đã qua sơ chế. Không mang thực phẩm ngoài, thực phẩm của mình vào trong bếp.
Giao nhận thực phẩm tại bếp
 Các thực phẩm sơ chế ngay thì cho lên trên bàn để sơ chế, còn thực phẩm cần bảo quản thì cho vào ngăn mát tủ lạnh của nhà trường. Các thực phẩm tuyệt đối không dặt xuống dưới đất. Khi sơ chế thô xong, thực phẩm sẽ được rửa sạch dưới vòi nước chảy sau đó sơ chế tinh như say, thái 
 Khi chế biến thực phẩm phải đảm bảo chất lượng tươi ngon, mất ít chất dinh dưỡng, màu sắc đẹp hấp dẫn với trẻ, đảm bảo an toàn vệ sinh. Thức ăn phải được nấu chín kĩ, nhỏ, nhừ, nấu xong cho trẻ ăn ngay. Thực hiện nghiêm túc quy định về lưu mẫu tức ăn theo đúng quy trình, mẫu thức ăn phải được lấy trước khi cho trẻ ăn. Hộp đựng mẫu thức ăn phải sạch sẽ, có nhãn mác, có nắp đậy, có niêm phong.
 Trước khi nhận thực phẩm sống đưa vào chế biến, nhân viên cấp dưỡng rửa dụng cụ: Dao, thớt sạch sẽ tránh để nhiễm khuẩn, rêu mốc trên dao thớt. các dụng cụ chế biến phải đảm bảo vệ sinh được rửa sạch để ráo nước trước khi sử dụng.
 Chế biến thực phẩm phải tuân thủ theo quy trình bếp một chiều (Cửa 1 vào bàn giao nhận thực phẩm, sơ chế thô, sơ chế tinh, nấu chín, chia ăn và đẩy thức ăn lên các lớp qua cửa ra 2) 
 Các dụng cụ chia ăn, cho trẻ ăn được sấy trước khi dùng như bát, thìa, xoong, nồi.
 Đồ dùng ăn uống mang trên lớp cho trẻ chuẩn bị dư số bát thìa so với số trẻ để phòng trẻ làm rơi.
 Khi chia thức ăn cho trẻ đủ cân, đủ lạng theo sổ sách. Nồi, xoong, có nắp đậy kín mang lên cho các lớp phải ký số giao nhận đủ thức ăn.
 Tôi thường xuyên kiểm tra khâu giao nhận thực phẩm và khâu chia thức ăn lên các lớp. Kiểm tra chất lượng bữa ăn trước khi chia đồ ăn lên các lớp để đảm bảo lượng thức ăn đủ, ngon, màu sắc hấp dẫn trẻ và các xoong thức ăn được đậy kín tránh côn trùng.
 3.5. Chú trọng trong công tác vệ sinh khu vực bếp và vệ sinh môi trường 
 Bếp ăn bán trú của trường được xây dựng bếp theo quy định một chiều. Cửa đưa thực phẩm tươi sống, sơ chế thực phẩm, phân chia thức ăn chín, cửa vận chuyển thức ăn chín lên các nhóm lớp. Thực hiện nguyên tắc bếp một chiều nhằm tránh thực phẩm sống và chín cùng đi chung một lối. Bếp ăn được xây dựng đẹp và công tác vệ sinh hàng ngày là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy tôi cho nhà bếp một lịch phân công cụ thể vệ sinh hàng ngày, tổng vệ sinh vào chiều thức 6 hàng tuần.
 Vệ sinh hàng ngày: vệ sinh các khu vực sơ chế tinh, sơ chế thô, khu nấu, khu chia ăn, sàn bếp, phòng ăn của giáo viên Tổng vệ sinh chiều thức 6 hàng tuần: Vệ sinh thang tời, vệ sinh tủ cơm, vệ sinh các giá kệ để thau chậu, tủ đựng thớt, dao, tủ đựng bát, thìa, tủ lạnh
 Các đồng dùng, dụng cụ nhà bếp được tôi sắp xếp ở các vị trí các khu vực sao cho thuận tiện, gọn gàng và có biển đề rõ ràng nơi tiếp phẩm và nơi sơ chế, khu nấu chín và nơi chia thức ăn cho từng lớp.
 Các đồ dùng ăn uống của trẻ được xấy và tráng nước sôi hàng ngày trước khi sử dụng.
 Tại bếp ăn tôi đặt thực đơn theo tuần, bảng định lượng suấ

File đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_cham.doc