Báo cáo biện pháp Một số biện pháp hình thành kĩ năng tự phục vụ, góp phần cho trẻ 5 – 6 tuổi tự lập trong cuộc sống
Bài học kinh nghiệm
Sáng kiến “Một số biện pháphình thành kĩ năng tự phục vụ, góp phần giúp trẻ5 -6 tuổi tự lập trong cuộc sống” là giải pháp cải tiến, tôi đã thiết kế rất nhiều các hoạt động dựa trên những kinh nghiệm giảng dạy thực tế của bản thân, tham khảo thêm từ đồng nghiệp và các nguồn tư liệu khác nhau.
Qua thực tiễn đã giúp tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Không được xem nhẹ vấn đề giáo dục thói quen tự phục vụ cho trẻ trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ nhà trẻ.
- Giáo viên tránh làm thay trẻ, nên giao việc cho từng trẻ, tạo cơ hội cho cháu chủ động hoạt động, để cháu có trách nhiệm với công việc mà mình được giao. Cô cần đặt niềm tin vào trẻ rằng trẻ của mình có thể làm được. Điều này sẽ giúp trẻ tự tin vào khả năng của mình.
- Bằng những kinh nghiệm thực tế trên đã chứng minh cho mọi người rằng: Dù là trẻ ở lứa tuổi nào đi nữa thì người lớn chúng ta cũng nên tôn trọng trẻ, nên yêu thương và gần gũi trẻ. Đó chính là điều kiện để góp phần giúp thế hệ tương lai của đất nước sống có ích hơn, yêu lao động và yêu cuốc sống hơn.
- Phải luôn đặt cái tâm của người giáo viên lên hàng đầu: “Cô giáo như mẹ hiền”. Cần tạo cho trẻ cảm nhận: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, “ Lớp học hạnh phúc”, Hãy yêu thương trẻ như con của mình, tận tình chỉ dạy trẻ.
- Khi thực hiện thì tránh nôn nóng, sợ mất thời gian mà phải thực hiện kiên trì, liên tục và xuyên suốt.
- Bản thân cần phải tích cực tìm tòi học hỏi, nhận thức sâu sắc những nội dung giáo dục và lựa chọn nội dung phù hợp đưa vào dạy trẻ lớp mình.
- Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện thành công ý tưởng của mình.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhà trường, phụ huynh cùng toàn thể CB – GV/NV trong công tác giáo dục và hình thành kĩ năng tự phục vụ cho trẻ.
- Thiết kế, xây dựng nhiều giáo án, nhiều hoạt động tạo mọi cơ hội để trẻ được hình thành và rèn luyện kĩ năng tự phuc vụ.
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín và niềm tin đối với phụ huynh và đối với trẻ, đồng tâm hướng tới mục tiêu chung.
3. Kiến nghị đề xuất.
3.1 Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp hình thành kĩ năng tự phục vụ, góp phần cho trẻ 5 – 6 tuổi tự lập trong cuộc sống
êu hướng dẫn, rèn luyện những kĩ năng cần thiết. Căn cứ vào tình hình thuận lợi và khó khăn, vào đặc điểm phát triển lứa tuổi tôi lập kế hoạch và lồng ghép việc rèn kĩ năng cho trẻ vào các hoạt động, cụ thể như sau: Tháng Nội dung rèn luyện Hoạt động 9 Tự cất balo, cất giày dép Đón trẻ 10 Cách lau lặt, rửa tay, lau miệng Tự xúc ăn, không kén chọn thức ăn Tự xếp, cất bát sau khi ăn Cách bê ghế Giờ ăn 11 Tự nhặt rác và bỏ rác vào thùng Cất dọn đồ chơi sau khi chơi xong Biết xếp hàng chờ đến lượt Hoạt động học, hoạt động chơi 12 Tự kê dát giường Tự xếp chăn gối sau khi ngủ dậy Giờ ngủ 1 Tự cởi, mặc quần áo, cất quần áo Giờ học, trước khi đi ngủ và ngủ dậy 2 Nhận biết các mối nguy hiểm: vật sắc nhọn, ổ điện, cháy nổ, nước nóng, bắt cóc Hoạt động học 3 Tự chải tóc ( buộc tóc) Sau khi ngủ dậy 4 Kỹ năng tự giải quyết tình huống Hoạt động chơi, học 5 Có hành vi văn minh nơi công cộng Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi Đi dạo, đi thăm quan. Sau khi lập kế hoạch xong tooin đưa ra mục tiêu hướng dẫn: 1.1. Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân: Nhóm kĩ năng tự chăm sóc bản thân gồm: * Kỹ năng tự phục vụ bản thân như: Tự thu dọn đồ chơi, tự cởi và mặc quần áo, tự đi dép, chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang khi đi ra ngoài, tự xúc ăn, tự đi lên xuống cầu thang, tự cất ba lô, tự kê bàn ghế trước và sau khi ăn, chuẩn bị và thu dọn thìa bát trước và sau bữa ăn, tự rót nước từ chai vào cốc ( Hình 1: Bé cất dọn đồ dùng sau khi chơi xong) * Kĩ năng tự chăm lo vệ sinh cá nhân như: Tự cho quần áo bẩn vào máy giặt, lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn, gạt nước sau khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ rác đúng nơi quy định, tự rửa mặt, rửa tay, chải răng, chải và buộc tóc ( Hình 2: Bé tự lau mặt trước khi ăn cơm) Ngoài ra cần hình thành và rèn luyện cho trẻ kỹ năng hỗ trợ người khác như: Bật tivi, bật quạt, lấy chén ăn cơm, lấy ly uống nước, cất dép đúng quy định, xách phụ đồ, tưới cây, dọn dẹp bàn ghế sau khi ăn xong 1.2 Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự bảo vệ Nhóm kĩ năng tự bảo vệ gồm: * Kĩ năng nhận biết nguy hiểm: Dạy trẻ học cách nhận biết các tình huống hay vật dụng nguy hiểm đồng thời hành động những hành động đúng và kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống. Các mối nguy hiểm trong nhà như: gas, bàn ủi, điện, nước nóng, dao kéo, các đồ vât bị vỡ, sắc nhọn... Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy rối, bắt cóc, bắt nạt, trộm cắp, cướp, lạc đường... Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, kẹt thang máy, chó cắn, ong đốt, ngộ độc Các mối nguy hiểm thiên tai ngoài môi trường: Động đất, lũ lụt, bị sa vào vũng lầy, sông nước ( Hình 3: Giờ học kỹ năng xử lý khi bị bắt cóc) * Kĩ năng tự giải quyết vấn đề Không phải những vấn đề trong cuộc sống đều được giải quyết một cách dễ dàng và bạn sẽ phải truyền đạt điều ấy cho trẻ khi chúng đối mặt với thử thách lớn và không phải lúc nào cũng có người lớn bên cạnh để giúp trẻ giải quyết vấn đề. Khi trẻ gặp phải một vấn đề nào đấy, tôi không thay trẻ giải quyết mọi vấn đề, trừ trường hợp bắt buộc phải làm như thế. Thay vào đó, tôi giúp trẻ tìm kiếm giải pháp thích hợp, điều này sẽ thể hiện sự tin tưởng của mình đối với trẻ, giúp trẻ tự tin vào khả năng của mình và mạnh dạn giải quyết vấn đề. Những việc hằng ngày mà tôi thực hiện luôn nhằm khuyến khích kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ giúp trẻ có những sáng kiến tốt hơn trong cuộc sống khi chúng lớn lên. Tôi chỉ là chỗ dựa cho học sinh của tôi chứ không phải là người giải quyết vấn đề cho các em. ( Hình 4: Tự mình mở nắp hộp đồ dùng ) 1.3 Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng thích nghi Thích nghi là một kĩ năng sống quan trọng vì nếu kĩ năng giao tiếp là bước đầu để tiếp xúc với môi trường bên ngoài, với những người xung quanh, thì thích nghi chính là bước tiếp theo để có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài. Đứa trẻ nếu có kĩ năng giao tiếp tốt có thể đạt được những thành công với những người xung quanh trong việc tham gia vào các hoạt động cùng với họ, là bố mẹ, ông bà hay các bạn của trẻ. Thế nhưng nếu trẻ không có khả năng thích nghi thì cũng khó mà đạt được những kết quả tốt cho cuộc sống của mình. * Kĩ năng thích nghi các loại thức ăn: Tôi thường kể cho trẻ nghe những mẩu chuyện hay những ví dụ điển hình về các bạn trong lớp ăn rất tốt trong các bữa ăn. Đồng thời trước bữa ăn để tạo cảm giác ăn ngon miệng và thích thú khi ăn, tôi giới thiệu tên các món ăn và tác dụng của những loại thực phẩm mà trẻ ăn thật hấp dẫn và thu hút. Trong giờ ăn ở trường tôi luôn tạo không gian thoáng mát, hợp vệ sinh, đảm bảo an toàn cho trẻ để trẻ ăn ngon miệng, luôn động viên khuyến khích để trẻ thi đua ăn hết xuất. Bữa nào trẻ ăn được thì tôi sẽ gắn một bông hoa và một khuôn mặt tươi cười, bữa nào trẻ khó ăn, không tập trung ăn thì sẽ có một khuôn mặt mếu. Đến cuối tuần làm tổng kết và khen ngợi trẻ về các khuôn mặt cười và tặng cho trẻ một món quà nho nhỏ. Nhưng nếu nhiều khuôn mặt buồn thì cũng không nên trách mắng, mà tôi khuyến khích: “ Cô biết là con sẽ làm tốt hơn vào tuần sau.”. * Kĩ năng thích nghi với môi trường Với môi trường sống cũng thế, một môi trường bẩn thỉu và ô nhiễm là không thể chấp nhận được, nhưng một không gian quá sạch sẽ cũng không phải là một điều kiện tốt cho sự phát triển của trẻ. Trẻ có thể nghịch cát, đất trong một chừng mực vừa phải vì điều đó giúp cho các bé vừa thỏa mãn được tính năng động, vừa nâng cao khả năng đề kháng. Dĩ nhiên là nên có sự giám sát của người lớn, nhưng chúng ta chỉ can thiệp khi có những dấu hiệu của sự nguy hiểm, còn đối với một vài cú vấp ngã của trẻ thì cứ để cho trẻ tự đứng lên, điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn mà còn cho chúng ta tránh được những sự mè nheo của trẻ. Quan điểm của tôi là rèn luyện tính chịu đựng trước khó khăn và phải tự lập chủ động trong mọi biến cố có thể xảy ra. Qua những bài rèn luyện thể chất, rất ít trẻ mắc bệnh về đường hô hấp như sổ mũi, viêm họng do thay đổi thời tiết. * Kĩ năng thích nghi với đám đông Con người có hai loại tính khí chính là tính hướng nội và tính hướng ngoại, và trong mỗi loại tính cách đó lại có 4 nhóm cá tính khác nhau. Các nhóm này thường có sự phối hợp để tạo nên những mẫu người có cá tính khác nhau. Vì vậy, tôi cho trẻ làm quen với đám đông phải dựa trên tính cách của các trẻ, tùy trẻ thuộc loại tính khí nào! Với trẻ hướng ngoại thì chúng ta không cần lo ngại, vì trẻ thường có xu thế thích đám đông, thích sự ồn ào vui vẻ, náo nhiệt, thích các hoạt động tập thể. Còn với trẻ hướng nội thì trẻ sẽ ngại tiếp xúc với đám đông, có vẻ như rụt rè nhút nhát. Nhưng các bé cũng có những ưu điểm để có thể thành công, đôi khi còn tốt hơn cả trẻ hướng ngoại nếu được sự định hướng đúng cách của người lớn. Tôi giúp trẻ quen dần với đám đông qua việc cho trẻ tham gia các giờ học dã ngoại, tham gia các hoạt động ở trường. Kĩ năng thích nghi là một trong những kĩ năng giúp một đứa trẻ bình thường, không có những năng lực đặc biệt gì nhưng vẫn có thể đạt được những thành công nhất định trong cuộc sống và không gục ngã trước những thách thức khi bước vào đời. Để giúp trẻ hình thành được các kĩ năng trên, tôi từng bước, tùy từng trẻ mà thực hiện: Đối với trẻ nhận thức chậm, hay quên tôi sẽ nói chậm rãi khi hướng dẫn trẻ, dạy trẻ cách truyền đạt thông tin với cô giáo bằng cách ra hiệu khi cần giúp đỡ. Song song đó tôi sẽ đưa ra các đề tài rèn kĩ năng tự phục vụ vào bài giảng hằng ngày và tiếp tục rèn các kĩ năng này ở mọi lúc mọi nơi cho đến khi trẻ thuần thục. Và tôi sẽ cho trẻ thực hiện mỗi ngày để nó dần trở thành thói quen tốt của trẻ. Tận dụng các tình huống cụ thể từ trẻ để rèn kĩ năng cho trẻ, như thế trẻ sẽ nhớ lâu hơn. 2. Cô là tấm gương của trẻ Sau khi đã lập kế hoạch và mục tiêu hướng dẫn trẻ, tôi xác định muốn hình thành kỹ năng cho trẻ thì bản thân cô giáo phải là tấm gương cho trẻ noi theo.Cô phải làm gương từ những việc đơn giản nhất có thể chẳng hạn như: - Khi đến lớp cô giáo cất gọn túi sách, mũ dép và khi trẻ nhìn thấy như vậy trẻ cũng sẽ biết phải sắp xếp gọn gàng như cô. - Trong giờ học khi dạy học xong cô cất gọn gàng đồ dùng của cô và nhắc trẻ xếp gọn gàng đồ dùng của trẻ đúng nơi quy định. - Đến giờ ăn trước khi chia cơm cô phải rửa tay và nhắc trẻ rửa tay sạch sẽ, ăn cơm xong nhắc trẻ cất bát, cất ghế đúng nơi quy định và lau miệng, uống nước xúc miệng nước muối. Trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt cô giáo luôn là tấm gương trong việc giữ gìn sạch sẽ môi trường, lớp học. Không vứt rác bừa bãi, thường xuyên cùng trẻ vệ sinh trong và ngoài lớp học, lau dọn đồ dùng đồ chơi, nhổ cỏ, nhặt rác quanh lớp học, sân trường. Từ đó hình thành cho trẻ ý thức vệ sinh chung. 3. Phân công công việc Trong lớp, do số lượng học sinh quá đông nên tôi lập bảng phân công cụ thể trực nhật hàng ngày cho từng cá nhân, hay từng nhóm để bé hiểu rằng mỗi người đều có trách nhiệm với công việc và hình thành thói quen làm việc. Ví dụ: Phân công mỗi tổ trực 1 ngày thực hiện các hoạt động trong ngày như: lau chùi, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi trong lớp, kiểm tra vệ sinh cá nhân (rửa mặt, rửa tay, lau mặt), lao động nhặt lá rụngCác tổ còn lại có nhiệm vụ theo dõi, nhận xét. Cô thường xuyên phân công và theo dõi trẻ trực nhật, nói rõ vai trò của những trẻ trực nhật. Người thực hiện nhiệm vụ trực nhật phải làm chu đóa và có trách nhiệm với công việc của mình. Tổ trực nhật tỏng giờ học sẽ lấy đồ dùng phát cho các bạn, thu dọn đồ dùng cau khi học xong. Rèn cho trẻ thói quen nền nếp, sự cố gắng, sáng tạo và đề cao tih thần trách nhiệm của mình với tập thể. Khi tổ chức các hoạt động ở lớp có thể phân công công việc cho các bé. Chẳng hạn như cho bé phụ giúp cô trong giờ ăn: Lấy ghế, lấy khay và khăn ăn. Với trẻ lớn hơn có thể giúp cô kê bàn, chia chén muỗng, giúp cô kê dát giường, trải chiếu, lấy chăn gối chuẩn bị giờ ngủ. (Hình 5: Bảng phân công trực nhật của trẻ) 4. Công tác tuyên truyền phụ huynh 4.1. Xác định việc rèn trẻ ngay từ khi còn nhỏ Việc rèn luyện kĩ năng sống tự phục vụ bản thân ngay từ nhỏ là vô cùng cần thiết đối với trẻ mầm non. Bởi tự phục vụ bản thân là một trong những kĩ năng quan trọng thúc đẩy trẻ hoàn thiện mình một cách tốt nhất, nó giúp trẻ thích ứng nhanh với môi trường xung quanh, phát triển tính nhanh nhẹn, khả năng tư duy, ý thức tự giác và tinh thần tập thể. Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích tự làm những công việc vừa sức của mình để phục vụ cho bản thân, cũng là vừa để thỏa mãn nhu cầu “muốn làm người lớn” và khặng định mình của trẻ. Càng hình thành cho trẻ kĩ năng tự phục vụ sớm ngay từ lúc nhỏ trẻ càng có ý thức tự giác cao, kĩ năng tự phục vụ bản thân ngày một thuần thục, nhạy bén. ( Hình 6: Cho trẻ tự xúc ăn sớm nhất khi có thể) Chính vì vậy trong các buổi họp phụ huynh hay qua giờ đón trả trẻ, tôi luôn tuyên truyền để phụ huynh biếtđược việc rèn trẻ càng sớm càng có kết quả tốt. Ngay từ khi trẻ bắt đầu đi học nhà trẻ cần được bố mẹ, cô giáo hướng dẫn hướng trẻ có ý thức, tạo lập các kĩ năng tự phục vụ đơn giản như: tự xúc ăn, tự cầm chai rót nước uống, tự lau mặt, tự đi vệ sinh biết cởi và mặc quần Và khi trẻ lớn lên thêm thì gia đình, và các cô giáo nên tích cực, kiên trì phát triển nhiều kĩ năng tự phục vụ khác cho trẻ sao cho phù hợp với khả năng của trẻ. Chứ đừng có suy nghĩ lớn lên rồi dạy. ( Hình 7: Ăn bằng đũa cũng đơn giản mà) 4.2. Xây dựng môi trường làm việc ngay tại gia đình Việc hướng dẫn và rèn luyện các kĩ năng tự phục vụ cho trẻ nếu chỉ có cô giáo và nhà trường thì không thể thành công mà phải có sự phối hợp của các thành viên trong gia đình trẻ như: cha mẹ, ông bà, anh em Trước tiên, tôi tuyên truyền với phụ huyng về sụ phát triển tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, nội quy nền nếp lớp học. Trao đổi thực tế nhận thức và khả năng của từng cháu cho phụ huynh thấy kha năng của con mình và từ đó tìm ra giải pháp tốt nhất để hình thành cho con một thói quen, một nề nếp tốt. Các thành viên trong gia đình cần tạo mọi cơ hội cho trẻ nhìn thấy các việc làm và cách thức làm việc của mình, đồng thời nên giải thích cho trẻ về việc đó (dù bé có hiểu hay không). Sau đó nên khuyến khích trẻ tham gia vào công việc phù hợp với khả năng. VD: Mẹ đang nhặt rau để nấu canh, hãy giải thích và bảo con trai cùng làm hộ. Sau đó mẹ hướng dẫn bé cách nhặt rau, mặc dù có thể trẻ làm chưa khéo, làm cho rau bị dập nhưng hãy cho cháu làm để có cơ hội rèn luyện lòng yêu thích công việc cũng như các kĩ năng làm việc nhà ngay từ nhỏ. Có thể tích cực “nhờ vặt” để trẻ có nhiều cơ hội được làm việc thì bé mới có được kĩ năng. Tôi trao đổi với phụ huynh về thời gian của trẻ ở nhà, góp ý phụ huynh hãy luôn khuyến khích trẻ tự phục vụ không nên làm hộ trẻ để trẻ không ỉ lại. Đồng thời tôi cũng thường xuyên trò chuyện với phụ huynh để nắm bắt được tình hình của trẻ động viên trẻ kịp thời. Tuy nhiên, tôi luôn trao đổi với phụ huynh rằng cần tập và lặp đi lặp lại để trẻ hình thành thói quen, nếu khi thấy bé mệt thì không nên bắt ép. Có như vậy sự rèn luyện mới có kết quả cao. ( Hình 8: Trao đổi với phụ huynh) 5. Dạy thông qua các hoạt động * Rèn trẻ trong giờ ăn Hoạt động ăn là hoạt động cần đến sự tự phục vục của trẻ rất nhiều, nhất là lại đối với trẻ 5 -6 tuổi. Trong giờ ăn nhiều kĩ năng tự phục vụ trẻ phải rèn luyện. Chính vì vậy, ngay từ ầu năm học tôi đã rất trú trọng trong việ rèn kỹ năng tự phục vụ trong giờ ăn cho trẻ. Để trẻ cảm thấy thoải mái, tôi cho trẻ tự phân công nhiệm vụ cho nhau. Trẻ tự giác trải bạt, chuẩn bị bàn ghế, tự rửa tay lau mặt, tự chia đồ dùng về bàn. Hơn nữa trẻ được tự xới cơm theo như cầu, tự lấy thức ăn với lượng phù hợp. Từ đó trẻ hứng thú hơn trong giờ ăn. Các con tự biết nhặt cơm vãi vào khay và lau tay vào khăn, tự biết lau bàn nếu có đánh rơi rớt ra bàn. Sau khi ăn xong, các con tự giác lên cất bát thìa đúng nơi quy định; tự giác lau miệng, lau tay và xúc miệng nước muối. Tất cả những kỹ năng tự phục vụ trên tôi chỉ hướng dẫn trẻ lúc đầu, về sau chỉ quan sát và nhắc nhở trẻ khi trẻ quên hoặc thực hiện chưa đúng. (Hình 9: Trẻ tự phục vụ trong giờ ăn) * Rèn trẻ trong giờ ngủ Cũng như giờ ăn, giờ ngủ cũng là một hoạt động lý tưởng để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Ở hoạt động này cô chỉ giữ vai trò quan sát, nhắc nhở, trẻ kê giường của mình, lấy chăn gối, cởi bớt áo để đi ngủ. Tôi quan sát thấy để trẻ tự làm trẻ ất hứng thú, có trẻ còn thích kê giúp bạn nữa. Sau khi ngủ dậy, trẻ cũng tự gấp chăn gọn gàng và cất vào đúng nơi quy đinh, sau đó cất giường đi. Khi đó có một việc mà các bạn nữ rất thích đó là chải tóc và buộc tóc cho nhau, có những trẻ có kỹ năng buộc rất khéo. (Hình 10: Trẻ buộc tóc cho bạn ) * Rèn trẻ trong tiết học Trong các tiết học cô luôn khuyến khích động viên trẻ tự tin, mạnh dạn, biết hoạt động độc lập và hoàn thành sản phẩm của mình. Cô giáo là người dẫn dắt trẻ hoạt động từ đó trẻ nắm được vai trò nhiệm vụ của mình. Trẻ hứng thú tích cực hơn trong hoạt động, vận động hoạt bát nhanh nhẹn hơn, rèn sự khéo léo của đôi bàn tay. Phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, trẻ sẽ chủ động trong mọi hoạt động, không ỉ lại người khác. Biết tự mình hoàn thành một bức tranh theo ý tưởng của mình, một bài tập, một vai chơi. Mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình về một sự vật hiện tượng. (Hình 11: Trẻ tự gấp quần áo) * Rèn ngoài tiết học mäi lóc mäi n¬i Phần lớn trẻ 5 tuổi tính tự lập đã phát triển. Trẻ thường thích tự làm mọi việc, tuy nhiên các thao tác còn vụng về, lúng túng dễ làm hỏng việc, cần phải có sự hướng dẫn trẻ trong công việc để trẻ làm đúng theo yêu cầu của người lớn. trải nghiệm cái được, cái chưa được.. Cô giáo có thể giúp đỡ bằng các câu hỏi gợi ý, khuyến khích trẻ tích cực hoạt động và sử dụng những kinh nghiệm sẵn có của mình vào trong quá trình hoạt động. Việc làm này được lặp đi, lặp lại trong ngày, dần dần kĩ năng tự phục vụ của trẻ càng phát triển. Chính vì vậy tôi đặc biệt quan tâm: Cho trẻ thường xuyên tập các hoạt động vừa sức: Quét dọn, xếp đồ dùng, đồ chơi, tưới cây, lau đồ dùng đồ chơi Cho phép trẻ tự quyết định làm mọi việc trẻ thích. Cô là người gợi ý trẻ làm theo chủ điểm. Để trẻ tự làm việc và quyết định giải quyết những việc có thể. Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ để trẻ cùng làm việc với cô Trong quá trình trẻ thực hiện cô theo dõi, giám sát và cho trẻ tự giải quyết một số tình huống xảy ra như: có vài bạn không tự giác lao động, vứt rác không đúng nơi, thao tác vệ sinh không gọn gàngCô gợi ý cho trẻ giải quyết bằng cách nhắc nhở lẫn nhau nhưng tuyệt đối tránh tình trạng “thủ lĩnh”. Nếu được bạn góp ý mà trẻ không xoay chuyển thì cô mới giải quyết. (Hình 12: Trẻ chăm sóc cây xanh) 6. Khuyến khích, động viên trẻ, lưu ý đến thái độ khi trẻ làm việc Tuy việc rèn trẻ là rất cần thiết nhưng tôi luôn chú ý đến thái độ của trẻ khi thực hiện đồng thời việc khen ngợi luôn làm cho trẻ cảm thấy thoải mái và tự tin khi làm. Việc khen ngợi cần được xem như hành động công nhận trẻ đã hoàn thành công việc nào đó, cho dù chúng chỉ hoàn thành ở mức sơ sài nhất. Cụ thể tôi đưa ra những lời nhận xét tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã làm. Tôi không bao giờ dùng những từ khen ngợi quá đáng cho một hành động đơn giản. Thay vào đó là những lời động viên tích cực như: Hôm nay có giờ xé dán nên lớp hơi bừa bộn nhưng các bạn tổ trưởng đã rất tích cực nhắc nhở các bạn gom giấy để đúng nơi quy định, cảm ơn con vì đã sắp xếp dép cho lớp, con đi vệ sinh đúng nơi quy định rồi đó, cảm ơn con đã cất dọn đồ chơi gọn gàng cho cô, cô rất vui khi các con giúp cô lau sạch lá cây. ( Hình 13: Trẻ lau lá cây) Các hình thức tôi thường dùng để khen, tuyên dương những hành động tốt trước lớp: cho trẻ được gắn sao của mình, cuối tuần thưởng 2 phiếu bé ngoan cho trẻ. Những hình thức đó các tác dụng rất tích cực đối với thái độ của trẻ khi làm việc. IV/ Kết quả đạt được Nội dung khảo sát Đầu năm Cuối năm Đạt Tỷ lệ % Đạt Tỷ lệ % Cách lau mặt 15 36 42 100 Cách rửa tay 15 36 42 100 Cách xúc miệng 27 64 42 100 Lau miệng sau khi ăn xong 18 43 42 100 Tự xúc cơm ăn, không kén chọn thức ăn 30 71 42 100 Tự xếp, cất bát sau khi ăn 38 90 42 100 Tự cởi, mặc quần áo, gấp quần áo 15 36 42 100 Xếp hàng chờ đến lượt 18 43 42 100 Tự xếp chăn, gối sau khi ngủ dậy 10 24 42 100 Tự kê dát giường 8 19 42 100 Tự chải tóc ( buộc tóc) 4 10 42 100 Tự cất ba lô, cất giày dép 26 62 42 100 Cách bê ghế 20 48 42 100 Nhận biết các mối nguy hiểm: vật sắc nhọn, ổ điện, cháy nổ, nước nóng, bắt cóc 20 48 42 100 Tự nhặt rác và bỏ rác vào thùng 25 60 42 100 Qua một quá trình rèn luyện cho trẻ với các biện pháp mà tôi đã thực hiện cuối năm trẻ của lớp tôi đã tiến bộ lên rất nhiều, nhiều cháu có thói quen tự phục vụ rất tốt, cháu thích thú được giúp cô và tự tin đề nghị với người lớn để trẻ được làm: Mẹ, cô để con làm cho, con biết làm mà, cháu chủ động và mong chờ được ba mẹ, cô giáo và người lớn nhờ giúp. Chính những điều này tạo nên niềm phấn khởi và yêu nghề hơn. C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận chung Việc rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là rất quan trọng và cần thiết nhằm phát triển cho trẻ tính độc lập, tính đoàn kết, tính chủ động và phát triển tính tư duy góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục cho trẻ mầm non trong giai đoạn hiện nay. Để rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ thì điều cần làm trước hết là cung cấp các kiến thức sơ đẳng nhưng cần thiết đối với trẻ. Việc rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ phải gắn vào việc làm cụ thể, được quan sát người lớn làm, trẻ được tự thực hiện để trải nghiệm. Chúng ta có thể rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua nhiều hình thức khác nhau: thông qua hoạt động vui chơi đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề, thông qua sinh hoạt hàng ngày, thông qua các phương tiện truyền thông, kể chuyện đọc thơ cho trẻ nghe... Có thể nói, có những khả năng tự phục vụ này là một điều tuyệt vời, bởi nó sẽ giúp trẻ hạnh phúc hơn, thu hút được sự chú ý của mọi người xung quanh, từ đó khuyến khích trẻ tạo ra những cơ hội để trẻ thể hiện mình. Những đứa trẻ biết tự phục vụ từ nhỏ thì nhanh nhẹn và hoạt bát
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_hinh_thanh_ki_nang_tu_phu.doc